Đóng

Dinh dưỡng và lối sống

Chế độ ăn uống và nguy cơ ung thư gan

Chế độ ăn uống ảnh hưởng lớn đến nguy cơ ung thư gan. Thói quen tiêu thụ thực phẩm nhiễm độc tố, ăn đồ chiên rán, uống rượu bia quá mức hoặc thiếu dưỡng chất có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Duy trì một chế độ ăn lành mạnh là chìa khóa bảo vệ gan và giảm nguy cơ ung thư.

Gan đóng vai trò quan trọng không chỉ trong quá trình chuyển hóa carbohydrate, chất béo và protein mà còn tham gia giải độc và sản xuất hormone. Do đó, chế độ ăn uống có tác động sinh học có thể đo lường được trên các con đường chính được đưa ra giả thuyết là có liên quan đến nguy cơ ung thư gan. Các cơ chế được đề xuất liên quan đến chế độ ăn uống và sự phát triển ung thư gan. Ví dụ, carbohydrate trong chế độ ăn uống là yếu tố chính quyết định phản ứng glucose và insulin sau bữa ăn, ảnh hưởng đến lượng đường trong máu tuần hoàn, nhu cầu insulin và khả dụng sinh học của yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 (IGF-1). Các axit amin chuỗi nhánh thiết yếu (BCAA), cụ thể là leucine, isoleucine và valine, là các axit amin thiết yếu có đặc tính ngăn ngừa ung thư ở bệnh nhân xơ gan, thông qua việc ức chế tín hiệu IGF ở gan và phong tỏa con đường phosphatidylinositol-3-kinase/protein kinase B (PI3k/Akt)/đích rapamycin (mTOR) của động vật có vú. Gần đây, bằng chứng mới nổi cũng cho thấy chế độ ăn uống kém có thể gây ra những thay đổi nổi bật trong hệ vi sinh vật đường ruột, gây ra sự phát triển quá mức của vi khuẩn đường ruột, rối loạn sinh lý, tính thấm của ruột, chuyển vị của vi khuẩn và nội độc tố trong máu, dẫn đến viêm gan, xơ hóa mãn tính, xơ gan và gây ung thư gan thông qua trục gan-ruột.

Giới thiệu

Trong những thập kỷ gần đây, bệnh gan mạn tính không ngừng tăng lên và trở thành nguyên nhân quan trọng gây bệnh tật và tử vong do các bệnh không lây nhiễm ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong khi đó, những thay đổi nhanh chóng trong lối sống và dân số già thường được cho là nguyên nhân gây ra những thay đổi lớn trong mô hình các yếu tố nguy cơ mắc bệnh gan mãn tính và các ưu tiên về sức khỏe không còn giới hạn ở các bệnh gan do virus. Do đó, việc xác định các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được là rất quan trọng để ngăn ngừa sự phát triển của bệnh gan mãn tính và can thiệp sớm.

Ung thư gan nguyên phát là nguyên nhân đứng thứ ba gây tử vong liên quan đến ung thư trên toàn thế giới. Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn với tiên lượng xấu; do đó, việc xác định các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được để phòng ngừa ung thư gan nguyên phát là rất cần thiết. Các yếu tố nguy cơ đã được xác định rõ ràng của ung thư gan bao gồm nhiễm virus viêm gan B (HBV) hoặc virus viêm gan C (HCV) mãn tính, uống nhiều rượu, các bệnh chuyển hóa như béo phì và tiểu đường và phơi nhiễm aflatoxin. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn các trường hợp ung thư trên toàn thế giới không thể giải thích được bằng các yếu tố nguy cơ đã biết hiện nay. Các yếu tố về chế độ ăn uống được cho là quan trọng, nhưng nguyên nhân gây ung thư gan do chế độ ăn uống vẫn chưa được hiểu rõ. Bao gồm các chất dinh dưỡng đơn lẻ, thực phẩm và nhóm thực phẩm, cũng như các kiểu ăn kiêng có nguy cơ phát triển ung thư gan. Mặc dù có những lỗ hổng kiến ​​thức lớn giữa chế độ ăn uống và nguy cơ ung thư gan, nhưng bằng chứng dịch tễ học hiện tại ủng hộ vai trò quan trọng của chế độ ăn uống trong sự phát triển ung thư gan. Ví dụ: Tiếp xúc với aflatoxin, uống nhiều rượu và có thể dùng sản phẩm từ sữa (không bao gồm sữa chua), trong khi uống cà phê, cá và trà, uống rượu ở mức độ nhẹ đến vừa phải và một số chế độ ăn uống lành mạnh (ví dụ: Chỉ số ăn uống lành mạnh thay thế) có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan. Các nghiên cứu trong tương lai với cỡ mẫu lớn và đo lường chế độ ăn uống chính xác được đảm bảo và cần xem xét các vấn đề như sự không đồng nhất về nguyên nhân có thể có giữa các phân nhóm ung thư gan, ảnh hưởng của nhiễm virus viêm gan B hoặc virus viêm gan C mạn tính, các quần thể có nguy cơ cao (ví dụ như xơ gan) và khả năng tương tác lẫn nhau, với hệ vi sinh vật đường ruột của vật chủ hoặc các biến thể di truyền.

Thực phẩm hoặc nhóm thực phẩm và nguy cơ ung thư gan

– Sản phẩm sữa: Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng lượng sản phẩm sữa cao có thể làm tăng nồng độ IGF-1 trong huyết tương. Nồng độ IGF-1 tăng lên, một yếu tố quan trọng trong việc điều hòa sự tăng sinh, biệt hóa, apoptosis và gây ung thư của tế bào, có thể góp phần vào sự phát triển của một số bệnh ung thư.

– Ngũ cốc nguyên hạt, trái cây, rau và các loại hạt: Nhận thấy rằng chế độ ăn kiêng dựa trên thực vật có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư gan. Một cách nhất quán, tổng chất xơ và chất xơ thực vật, đặc biệt là chất xơ từ ngũ cốc, có thể làm giảm nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan, trong khi chất xơ từ trái cây dường như không liên quan đến nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan. Những phát hiện này ít có khả năng xảy ra một cách tình cờ, vì so với chất xơ trái cây, chất xơ ngũ cốc (có thể là chất xơ thực vật) đã được chứng minh là có liên quan chặt chẽ hơn với nguy cơ mắc các kết quả sức khỏe khác thấp hơn bao gồm cả tỷ lệ tử vong toàn phần và ung thư đại trực tràng. Những lý do chính xác cho sự khác biệt như vậy vẫn chưa được biết. Một lời giải thích có thể là trái cây, đặc biệt là nước ép trái cây, có chứa đường hoặc đường bổ sung (ví dụ như fructose và sucrose), có thể gây tổn thương gan và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, do đó che giấu lợi ích có thể có của việc bổ sung chất xơ. Các loại hạt rất giàu axit béo không bão hòa, protein thực vật, vitamin, folate, chất xơ, khoáng chất và các hợp chất hoạt tính sinh học khác. Tiêu thụ hạt có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.

– Thịt: Năm 2015, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế đã phân loại việc tiêu thụ thịt đỏ là có thể gây ung thư cho con người (Nhóm 2A), trong khi việc tiêu thụ thịt đỏ đã qua chế biến được phân loại là gây ung thư cho con người (Nhóm 1). Ngoài hàm lượng chất béo bão hòa và haem Fe cao được tìm thấy trong thịt, các cơ chế tiềm ẩn có thể bao gồm các hợp chất N-nitroso có khả năng gây ung thư được hình thành nội sinh từ nitrat hoặc nitrit trong quá trình chế biến hoặc bảo quản thịt và các amin dị vòng (HCA) trong quá trình nấu thịt. Ngược lại, các loại thịt trắng (tức là thịt gia cầm và cá), đặc biệt là ăn cá, đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư , có thể là do PUFA n -3 chuỗi dài có trong cá, đặc biệt là cá béo. Ngoài ra, thịt trắng bao gồm cá và thịt gia cầm là nguồn các axit amin chuỗi nhánh thiết yếu phong phú, có thể đóng vai trò bảo vệ trong quá trình gây ung thư gan, đặc biệt là ăn cá với sự phát triển Ung thư biểu mô tế bào gan, nhất quán với những phát hiện trong báo cáo gần đây nhất của Quỹ Nghiên cứu Ung thư Quốc tế/Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ. Nhìn chung, việc tiêu thụ thịt đỏ, đặc biệt là thịt đỏ đã qua chế biến có thể tăng lên, trong khi thịt trắng và cá có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan.

Đậu nành: Bằng chứng cho thấy isoflavone đậu nành có thể ngăn ngừa ung thư gan cả in vitro in vivo. Đã có một số nghiên cứu quan sát về đậu nành hoặc isoflavone đậu nành và nguy cơ ung thư gan phát hiện này phù hợp với nghiên cứu đoàn ở Trung Quốc cho thấy rằng việc tăng lượng đậu nành tiêu thụ có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan. Ngược lại, isoflavone đậu nành (genistein hoặc daidzein) cho thấy mối liên hệ tích cực với nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan ở phụ nữ và cho thấy mối liên hệ vô hiệu ở nam giới trong một đoàn hệ khác của Nhật Bản (101 trường hợp HCC), cũng đã xem xét cẩn thận việc nhiễm virus viêm gan B và virus viêm gan C.

Đồ uống và nguy cơ ung thư gan

– Trà: Là một trong những đồ uống phổ biến nhất được tiêu thụ trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc. Các nghiên cứu trên động vật và in vitro cho thấy tác dụng bảo vệ chống lại sự khởi đầu của ung thư và sự phát triển tiếp theo của nó, phần lớn nhờ vào các chất chống oxy hóa polyphenolic có trong trà. Cho thấy nồng độ catechin trong nước tiểu cao hơn (một phần phản ánh việc uống trà xanh) có thể không giảm nhưng làm tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào gan.

– Cà phê : Bằng chứng cho thấy cà phê bảo vệ chống lại bệnh ung thư gan đã được Quỹ Nghiên cứu Ung thư Quốc tế/Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ xác định là có thể xảy ra nhưng không thuyết phục trong báo cáo SLR 2013 của họ. Sau SLR 2013, tổng cộng có 16 nghiên cứu có liên quan bao gồm 8 phân tích tổng hợp đã được xuất bản. Tất cả các nghiên cứu trên đều ủng hộ mối liên hệ nghịch đảo giữa cà phê và nguy cơ ung thư gan. Đã chỉ ra một cách nhất quán rằng việc tăng tiêu thụ cà phê thêm một cốc/ngày có liên quan đến việc giảm 15–20% nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan. Mối liên hệ bảo vệ giữa việc uống cà phê thường xuyên và nguy cơ ung thư gan dường như mạnh mẽ hơn ở nam giới, dân số châu Á và trong các nghiên cứu bệnh chứng so với phụ nữ, ở dân số không phải châu Á và trong các nghiên cứu đoàn hệ. So với cà phê chứa caffein, cà phê không chứa caffein cho thấy mối liên hệ nghịch đảo không đáng kể với nguy cơ ung thư gan yếu hơn.

– Rượu: Uống nhiều rượu (tức là >45 g/ngày, trên khoảng 3 ly/ngày) đã được Quỹ Nghiên cứu Ung thư Quốc tế/Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ xác định là nguyên nhân thuyết phục gây ung thư gan, điều này đã được xác nhận thêm bởi các nghiên cứu thuần tập và phân tích tổng hợp. Tuy nhiên, việc tiêu thụ rượu ở mức độ nhẹ đến trung bình (ví dụ <3 ly/ngày) có liên quan đến ung thư gan hay không vẫn chưa được trả lời trong SLR 2013. Uống rượu vừa phải có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh bệnh tiểu đường tuýp 2, có thể do tăng độ nhạy insulin. Do đó, uống rượu ở mức độ nhẹ đến vừa phải có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan thông qua việc giảm nguy cơ mắc bệnh bệnh tiểu đường tuýp 2.

Chế độ ăn có vai trò quan trọng đối với sức khỏe của con người nhưng mọi người vẫn còn chủ quan và có những lỗ hổng kiến ​​thức lớn giữa chế độ và bệnh. Hiện nay, tỷ lệ ung thư ngày càng gia tăng, vì vậy mọi người cần phải chú ý đến chế độ ăn ngay từ ngày hôm nay để có một cơ thể khỏe mạnh và ngăn chặn bệnh tật phát triển.

BS. Phạm Thị Hồng Vân (Thọ Xuân Đường)