Y học cổ truyền bổ trợ trong toàn bộ quá trình điều trị ung thư
Như đã biết, phẫu thuật, hóa trị và xạ trị là các liệu pháp điều trị ung thư bằng Tây y phổ biến chính. Mặc dù các liệu pháp này hướng đến mục tiêu tiêu diệt hoặc loại bỏ tế bào ung thư, một loạt các biến chứng và tác dụng phụ sẽ xuất hiện như phù bạch huyết chi trên, nhiễm trùng/sốt, mệt mỏi, đau, thiếu máu, tiêu chảy, buồn nôn và nôn, rụng tóc và ức chế tủy xương. Những biến chứng và tác dụng phụ này gây bất tiện và khó chịu cho bệnh nhân và chúng cũng có thể hạn chế hoặc ngăn cản việc cung cấp liệu pháp ở liều lượng và thời điểm tối ưu, có khả năng gây tử vong. Y học cổ truyền đã được phát hiện là có tác dụng bổ sung trong liệu pháp điều trị ung thư. Bài viết này tóm tắt về việc sử dụng thuốc Y học cổ truyền để giảm một số biến chứng và tác dụng phụ liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư thông thường trong các nghiên cứu lâm sàng.
Phù bạch huyết
Phù bạch huyết là một biến chứng y khoa nghiêm trọng thường liên quan đến điều trị ung thư vú, chẳng hạn như phẫu thuật và/hoặc xạ trị, và có thể xảy ra sau hơn 5 năm sau phẫu thuật. Phù bạch huyết liên quan đến sự tích tụ dịch giàu protein trong khoảng kẽ, và xảy ra khi hệ thống bạch huyết bị tổn thương và không còn dẫn lưu dịch bạch huyết trở lại hệ tuần hoàn toàn thân đúng cách. Khi hệ thống bạch huyết bị tổn thương, dịch tích tụ ở chi bị ảnh hưởng, dẫn đến sưng, xơ hóa, giảm phạm vi chuyển động, giảm chức năng và ở giai đoạn sau là nhiễm trùng và đau. Tuy nhiên, rất khó để chữa khỏi một khi đã xảy ra mặc dù đã có nhiều phương pháp điều trị khác nhau như mát-xa, quần áo bó, băng hoặc tay áo, dẫn lưu bạch huyết bằng tay, tập thể dục cá nhân và giáo dục về chăm sóc da và phòng ngừa nhiễm trùng. Trong những năm gần đây, một số báo cáo liên quan đến hiệu quả sử dụng thuốc Y học cổ truyền ở những bệnh nhân ung thư bị phù bạch huyết đã được báo cáo.
Coumarin, một hợp chất hóa học có nguồn gốc từ một số loại thực vật như đậu Tonka, có thể làm giảm phù bạch huyết và tỷ lệ nhiễm trùng thứ phát vì nó làm giảm thể tích protein bằng cách kích thích quá trình phân giải protein. Tuy nhiên, Loprinzi và cộng sự đã báo cáo rằng coumarin có khả năng gây ra các tác dụng phụ tiêu cực và thậm chí đe dọa tính mạng, chẳng hạn như độc tính với gan. Do đó, cần nghiên cứu sâu hơn với thiết kế chặt chẽ và quy mô mẫu lớn hơn để đánh giá lại hiệu quả của coumarin trong điều trị phù bạch huyết.
Natri aescine là một chế phẩm thuốc Đông y được chiết xuất từ hạt dẻ ngựa và được sử dụng rộng rãi để điều trị suy tĩnh mạch mãn tính. Nó cũng được sử dụng rộng rãi để điều trị sưng mô mềm do nhiều nguyên nhân khác nhau như phù bạch huyết chi trên liên quan đến ung thư vú. Hơn nữa, một cơ chế của aescine có thể liên quan đến việc ức chế hoạt động của các enzym elastase và hyaluronidase.
Tác dụng phụ đường tiêu hóa
Tác dụng phụ đường tiêu hóa bao gồm chán ăn, tiêu chảy, buồn nôn và nôn là những triệu chứng phổ biến nhất xảy ra ở bệnh nhân ung thư sau phẫu thuật và/hoặc đang hóa trị hoặc xạ trị. Tuy nhiên, vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nào để cải thiện các triệu chứng này ở bệnh nhân ung thư. Gần đây, nhiều thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng một số loại thuốc Đông y có thể có hiệu quả trong việc điều trị tác dụng phụ đường tiêu hóa.
Lục Quân tử thang là một công thức thảo dược truyền thống, được sử dụng rộng rãi ở trong y học cổ truyền để điều trị các triệu chứng đường tiêu hóa trên của bệnh nhân bị chứng khó tiêu chức năng, bệnh trào ngược dạ dày thực quản, các triệu chứng khó tiêu của bệnh nhân sau phẫu thuật đường tiêu hóa và chứng khó tiêu do hóa trị ở bệnh nhân ung thư. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản phát hiện ra rằng Lục Quân tử thang như một chất tăng cường ghrelin có hiệu quả trong điều trị chứng khó tiêu do cisplatin gây ra và hội chứng chán ăn do ung thư. Lục Quân tử thang cải thiện đáng kể các triệu chứng của hội chứng sau cắt dạ dày và chất lượng cuộc sống lâu dài ở những bệnh nhân ung thư dạ dày đã trải qua phẫu thuật cắt dạ dày gần. Ngoài ra, một số nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng Hoàng Cầm thang (PHY906) tăng cường chỉ số điều trị của một phổ rộng các tác nhân chống ung thư như Capecitabine, 5-FU và irinotecan trong ung thư đại trực tràng, gan và tuyến tụy. PHY906 có thể làm giảm độc tính do hóa trị gây ra, đặc biệt là các tác dụng phụ ở đường tiêu hóa (ví dụ như tiêu chảy, đau bụng và nôn) và/hoặc tăng hiệu quả hóa trị mà không ảnh hưởng đến dược động học của các tác nhân hóa trị.
Đau
Đau là triệu chứng phổ biến và nặng nề của bệnh ung thư và nguyên nhân gây đau có thể là do chính căn bệnh ung thư (khối u chèn ép vào xương, dây thần kinh hoặc các cơ quan khác) hoặc do quá trình điều trị (ví dụ phẫu thuật, hóa trị hoặc xạ trị). Người ta đã báo cáo rằng 75-90% bệnh nhân ung thư, đặc biệt là những người có di căn xương, đã bị đau trong quá trình mắc bệnh. Theo hướng dẫn hiện tại của WHO, liệu pháp giảm đau theo thang ba bước là tiêu chuẩn chăm sóc cho cơn đau do ung thư. Tuy nhiên, vẫn có tới 50% cơn đau do ung thư không được điều trị đầy đủ.
Trong những năm gần đây, nhiều thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng một số loại thuốc Đông y như liệu pháp bổ sung có thể có hiệu quả trong việc điều trị cơn đau liên quan đến ung thư. Thuốc Đông y có thể làm giảm tác dụng phụ của thuốc giảm đau thông thường và sau đó cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư. Để đánh giá hiệu quả của thuốc Đông y đường uống trong việc giảm đau thứ phát do di căn xương ở bệnh nhân, một phân tích tổng hợp đã ghi danh tổng cộng 16 thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên và 1.008 bệnh nhân đã được xác định và phân tích. Kết quả cho thấy thuốc Y học cổ truyền kết hợp với phương pháp điều trị thông thường làm tăng tỷ lệ giảm đau so với chỉ điều trị thông thường. Một phân tích tổng hợp khác đã ghi danh tổng cộng 7 thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên và 521 bệnh nhân đã được xác định và phân tích để đánh giá hiệu quả và độ an toàn của thuốc tiêm kushen hợp chất (một chế phẩm chiết xuất từ rễ củ Khổ sâm) đối với chứng đau do ung thư xương. So với xạ trị hoặc bisphosphonate, thuốc tiêm kushen hợp chất cho thấy hiệu quả đáng kể trong việc cải thiện tình trạng giảm đau ở những bệnh nhân bị đau do ung thư xương. Ngoài ra, một số thử nghiệm lâm sàng chỉ ra rằng châm cứu có thể có lợi trong việc làm giảm cơn đau do ung thư. Nhìn chung, các biện pháp can thiệp của Y học cổ truyền dường như có tác dụng có lợi đối với chứng đau thứ phát do di căn xương.
Mệt mỏi
Mệt mỏi liên quan đến ung thư là cảm giác mệt mỏi chủ quan, dai dẳng và rất phổ biến liên quan đến bệnh ung thư hoặc quá trình điều trị ung thư, không thể cải thiện bằng cách ngủ hoặc nghỉ ngơi, và nhìn chung 50-90% số người mắc ung thư đều cảm thấy mệt mỏi. Tình trạng này ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân và làm giảm chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, tình trạng này vẫn chưa được nhận biết và điều trị đầy đủ, một phần là do hiểu biết hạn chế về bệnh sinh lý của nó và thiếu các phương pháp điều trị hiệu quả.
Một số loại thuốc thảo dược có thể có tác dụng có lợi đối với tình trạng mệt mỏi liên quan đến ung thư và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số bài thuốc như Bổ trung ích khí thang (TJ-41) được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với hóa trị liệu hoặc chăm sóc hỗ trợ đã cho thấy hiệu quả giảm đáng kể tình trạng mệt mỏi liên quan đến ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống so với hóa trị liệu hoặc chăm sóc hỗ trợ dựa trên các thử nghiệm đơn lẻ. Ngoài ra, một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của Sâm mạch tán ở những bệnh nhân ung thư đang trải qua hóa trị hoặc xạ trị. Sâm mạch tán được phát hiện có hiệu quả trong điều trị mệt mỏi liên quan đến ung thư và có hoạt tính chống mệt mỏi. Theo lý thuyết của Y học cổ truyền, Sâm mạch tán có tác dụng hiệp đồng đối với tình trạng thiếu khí và âm, tương tự như các tác dụng phụ do hóa trị hoặc xạ trị gây ra và có khả năng ngăn ngừa mệt mỏi.
Ức chế tủy xương
Ức chế tủy xương là tình trạng giảm hoạt động của tủy xương, dẫn đến giảm số lượng hồng cầu, tiểu cầu và bạch cầu. Một trong những lý do phổ biến nhất khiến bệnh nhân mắc tình trạng này là do điều trị hóa trị ung thư. Trong những năm gần đây, một số loại thuốc Đông y được báo cáo là có tác dụng có lợi đối với tình trạng ức chế tủy xương liên quan đến hóa trị. A giao là một vị thuốc y học cổ truyền được sử dụng rộng rãi trong liệu pháp bổ dưỡng sự sống và chống thiếu máu lâm sàng trong hơn 2.000 năm. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng A giao và các chế phẩm của nó như Fufang E-Jiao Jiang có thể thúc đẩy hiệu quả quá trình phục hồi chức năng tạo máu của tủy xương ở những bệnh nhân ung thư bị suy tủy đang trải qua hóa trị. Fufang E-Jiao Jiang kết hợp với interleukin-11 thông thường (rhIL-11) và yếu tố kích thích khuẩn lạc bạch cầu hạt của người tái tổ hợp (rhG-CSF) ở những bệnh nhân ung thư cho thấy hiệu quả đáng kể trong việc làm giảm tình trạng suy tủy do hóa trị liệu phác đồ GP (Gemcitabine + DDP) và làm tăng số lượng bạch cầu và tiểu cầu trong máu so với chỉ sử dụng nhóm rhIL-11 và rhG-CSF. Ngoài ra, Thập toàn đại bổ thang (TJ-48) được báo cáo là có hiệu quả đáng kể trong việc làm giảm tình trạng suy tủy do hóa trị liệu phác đồ FOLFOX4 ở những bệnh nhân bị khối u ác tính đường tiêu hóa. Nó có hiệu quả làm tăng số lượng bạch cầu và cải thiện các triệu chứng như chóng mặt và mệt mỏi. Nhìn chung, các can thiệp của Y học cổ truyền dường như có tác dụng có lợi trong việc làm giảm tình trạng suy tủy do hóa trị liệu ở những bệnh nhân ung thư.
Viêm phổi do xạ trị
Viêm phổi do xạ trị là một trong những biến chứng thường gặp nhất trong quá trình xạ trị khối u ngực. Nó ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và có nguy cơ đe dọa tính mạng. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu phương pháp, thuốc để phòng ngừa và điều trị căn bệnh này.
Trong những năm gần đây, một số thuốc Đông y đã được báo cáo là có tác dụng có lợi đối với viêm phổi do xạ trị liên quan đến xạ trị. Shenqi fuzheng (Thuốc tiêm Shenqi fuzheng là một công thức thảo dược truyền thống của Trung Quốc dạng tiêm bao gồm Hoàng kỳ, Đẳng sâm. Thuốc tiêm đã được FDA của Trung Quốc chấp thuận từ những năm 1990) kết hợp với kháng sinh và liệu pháp xung ngắn hạn với hormone hiệu quả cao có tác dụng tốt đối với viêm phổi do xạ trị so với nhóm đối chứng chỉ được điều trị bằng liệu pháp xung kháng sinh và hormone. Sự kết hợp này có thể cải thiện hiệu quả các triệu chứng và dấu hiệu hô hấp, đồng thời điều chỉnh các phân nhóm tế bào lympho T (tỷ lệ CD3+, CD4+, CD8+ và CD4+/CD8+), cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Ngoài ra, một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có triển vọng đã được tiến hành để đánh giá tác dụng của thuốc sắc Liangxue Jiedu Huoxue bao gồm 7 vị thuốc (Thục địa, Xuyên khung, Đan bì, Đào nhân, Hồng hoa, Hoàng kỳ và Liên kiều) có tác dụng lương huyết, giải độc, hoạt huyết. Trong nghiên cứu này, 100 bệnh nhân ung thư phổi được lên lịch xạ trị đã được chia ngẫu nhiên thành nhóm điều trị (thuốc sắc Liangxue Jiedu Huoxue + xạ trị) và nhóm đối chứng (xạ trị) với 50 bệnh nhân trong mỗi nhóm. Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc viêm phổi do xạ trị thấp hơn ở nhóm điều trị so với nhóm đối chứng (13,04% so với 33,33%, p < 0,05). Hơn nữa, mức độ tổn thương phổi và các triệu chứng của viêm phổi do xạ trị đã được cải thiện ở nhóm điều trị.
Độc tính với gan
Độc tính với gan là tác dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 33-65,6% ở những bệnh nhân ung thư và có tới 30% bệnh nhân bị độc tính với gan cấp độ III hoặc IV. Mặc dù 90% bệnh nhân đã phục hồi chức năng gan bình thường sau khi ngừng sử dụng thuốc gây độc cho gan, nhưng các hướng dẫn hóa trị liệu hiện tại yêu cầu phải ngừng hóa trị liệu khi độc tính với gan được chỉ ra bởi mức AST và ALT đạt gấp bốn lần giới hạn bình thường trên. Hơn nữa, còn thiếu các loại thuốc có hiệu quả bảo vệ chức năng gan và tăng men gan.
Để kiểm tra hiệu quả của thuốc Y học cổ truyền trong việc bảo vệ gan khỏi tác dụng độc hại của hóa trị liệu ở những bệnh nhân ung thư (ví dụ: Tiểu sài hồ thang, Hoàng liên giải độc thang hoặc Nhân trần ngũ linh tán) và hóa trị liệu, một nghiên cứu ca-chứng gồm 89 bệnh nhân và 184 đợt hóa trị liệu đã được tiến hành. Sử dụng thuốc Y học cổ truyền với hóa trị liệu đem lại hiệu quả bảo vệ gan trong quá trình hóa trị liệu, biểu hiện bằng mức AST và ALT trong huyết thanh thấp hơn.
Y học cổ truyền ngày càng thể hiện vai trò trong việc điều trị ung thư. Ung thư vẫn là bệnh lý khó và quá trình điều trị lâu dài, nhiều khó khăn. Dù áp dụng hay kết hợp phương pháp điều trị nào, bệnh nhân ung thư vẫn cần kết hợp chặt chẽ với bác sĩ.
BS. Tú Uyên (Thọ Xuân Đường)