Đóng

Ung thư máu

Tìm hiểu về bệnh bạch cầu

Mỗi năm có hơn 60.000 người được chẩn đoán mắc một số loại bệnh bạch cầu. Bệnh bạch cầu chiếm 3,6% của tất cả các trường hợp ung thư mới. Bệnh bạch cầu là một thuật ngữ rộng để chỉ các bệnh ung thư ảnh hưởng đến các tế bào máu. Người lớn trên 55 tuổi có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi bệnh bạch cầu; tuy nhiên, trẻ em cũng có thể phát triển bệnh bạch cầu. Trên thực tế, bệnh bạch cầu là bệnh ung thư phổ biến nhất ở trẻ em dưới 15 tuổi. Các triệu chứng bệnh bạch cầu sớm đôi khi có thể mơ hồ và dễ nhầm lẫn với các bệnh hoặc tình trạng khác.

Tìm hiểu về bệnh bạch cầu

 

Điều gì gây ra bệnh bạch cầu? Không hoàn toàn rõ ràng tại sao một số người mắc bệnh bạch cầu và những người khác thì không; tuy nhiên, các yếu tố rủi ro dường như đóng vai trò trong một số trường hợp bệnh bạch cầu bao gồm: Yếu tố di truyền, tiền sử gia đình, tiếp xúc với một số hóa chất, hút thuốc và đã được điều trị một loại ung thư khác bằng xạ trị hoặc hóa trị.

Bệnh bạch cầu có chữa được không? Những tiến bộ trong điều trị bệnh bạch cầu đã đi một chặng đường dài trong vài thập kỷ qua. Ví dụ, tỷ lệ sống sót chung trong 5 năm đối với bệnh bạch cầu đã tăng hơn gấp 4 lần kể từ năm 1960. Gần 60% bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu hiện sống sót sau 5 năm hoặc hơn sau khi được chẩn đoán. Các phương pháp được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu như hóa trị, xạ trị, liệu pháp sinh học, cấy ghép tế bào gốc và các phương pháp khác. Mặc dù không phải lúc nào cũng có thể ngăn ngừa được bệnh bạch cầu, lối sống lành mạnh và thói quen ăn kiêng có thể giúp hạn chế nguy cơ mắc bệnh và giúp người bệnh hồi phục sau khi điều trị.

Bệnh bạch cầu là gì?

Định nghĩa của bệnh bạch cầu là “Ung thư bắt đầu trong mô tạo máu, chẳng hạn như tủy xương, và khiến một số lượng lớn các tế bào máu bất thường được tạo ra và xâm nhập vào máu.” Ngoài việc ảnh hưởng đến các mô tạo máu của cơ thể, bệnh bạch cầu còn ảnh hưởng đến hệ thống bạch huyết, khiến việc chống nhiễm trùng trở nên khó khăn hơn.

Bệnh bạch cầu là bệnh ung thư phổ biến nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là loại được gọi là bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính (ALL), và ở mức độ thấp hơn là bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML). Bệnh bạch cầu được ước tính chiếm gần 1 trong 3 bệnh ung thư ở trẻ em và thanh thiếu niên.

Một số người gọi bệnh bạch cầu là một nhóm bệnh ung thư máu. Ung thư máu ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và chức năng của các tế bào máu của người bệnh và thường bắt đầu từ tủy xương nơi sản xuất máu. Các tế bào bạch cầu thường bị ảnh hưởng bởi bệnh bạch cầu, thường có vai trò bảo vệ cơ thể khỏi mầm bệnh và nhiễm trùng. Trong nhiều trường hợp bệnh bạch cầu, tủy xương tạo ra các tế bào bạch cầu bất thường không hoạt động như bình thường, dẫn đến giảm khả năng miễn dịch và nhiễm trùng tái phát. Các tế bào bạch cầu thấp, tiểu cầu thấp và các tế bào hồng cầu bất thường là nguyên nhân cơ bản của các triệu chứng bệnh bạch cầu lan rộng.

Tiên lượng bệnh bạch cầu (cơ hội bệnh nhân hồi phục và sống sót) phụ thuộc vào một số yếu tố, ví dụ: Tuổi của bệnh nhân, sức khỏe tổng thể của họ, tiền sử mắc bất kỳ bệnh ung thư nào khác, di truyền và liệu họ đã được điều trị ung thư trước đây chưa. Điều trị bệnh bạch cầu càng sớm càng tốt có thể giúp người bệnh kéo dài sự sống và kiểm soát các triệu chứng.

Các triệu chứng của bệnh bạch cầu

Các triệu chứng bệnh bạch cầu khác nhau ở mỗi người tùy thuộc vào loại bệnh bạch cầu cụ thể mà họ mắc phải. Các triệu chứng bệnh bạch cầu ban đầu đôi khi cũng có thể mơ hồ và bị nhầm lẫn với các bệnh hoặc tình trạng khác, chẳng hạn như sốt không rõ nguyên nhân, cúm hoặc tình trạng tự miễn dịch.

Một số triệu chứng bệnh bạch cầu phổ biến nhất bao gồm:

– Các triệu chứng của sốt, bao gồm suy nhược và ớn lạnh;

– Mệt mỏi hoặc kiệt sức liên tục;

– Nhiễm trùng thường xuyên hoặc nặng;

– Giảm cân ngoài ý muốn và chán ăn, đôi khi do đau dạ dày và cảm giác đầy bụng;

– Sưng hạch bạch huyết (viêm hạch);

– Lá lách hoặc gan to;

– Chảy máu và/hoặc bầm tím kéo dài hoặc dễ dàng do số lượng tiểu cầu trong máu thấp. Điều này cũng có thể gây chảy máu cam;

– Những đốm đỏ nhỏ phát triển trên da (được gọi là chấm xuất huyết);

– Đổ mồ hôi quá nhiều, bao gồm cả đổ mồ hôi ban đêm khi ngủ;

– Đau xương hoặc đau khắp mình mẩy;

– Da xanh xao do thiếu máu;

– Cảm thấy lạnh;

– Cảm thấy chóng mặt hoặc lâng lâng;

– Nhức đầu;

– Khó thở và/hoặc ho;

– Sưng mặt và cánh tay.

Nhiều triệu chứng bệnh bạch cầu là do số lượng hồng cầu thấp (thiếu máu), vì các tế bào hồng cầu cần thiết để vận chuyển oxy đến tất cả các tế bào trong cơ thể. Một số triệu chứng bệnh bạch cầu, chẳng hạn như nhiễm trùng tái phát, có thể là do lượng bạch cầu thấp.

Giảm tiểu cầu, hoặc có lượng tiểu cầu thấp, là một vấn đề phổ biến và nghiêm trọng khác ở nhiều bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu, đặc biệt là những người mắc bệnh bạch cầu cấp tính (dạng tủy và tế bào lympho) hoặc bệnh bạch cầu mạn tính tiến triển. Giảm tiểu cầu có thể gây chảy máu quá nhiều và các triệu chứng như chảy máu da và lợi, chảy máu đường tiêu hóa, nội sọ, võng mạc hoặc phổi.

Các loại bệnh bạch cầu

Mặc dù các loại khác nhau đều được gọi là bệnh bạch cầu, nhưng không phải tất cả các loại đều có nhiều điểm chung ngoại trừ thực tế là chúng ảnh hưởng đến tủy xương và máu. Biết loại bệnh bạch cầu cụ thể mà người bệnh mắc phải là rất quan trọng vì điều này sẽ giúp người bệnh đưa ra quyết định điều trị và biết những gì có thể xảy ra về mặt triệu chứng và tiên lượng.

Loại bệnh bạch cầu mà một người được chẩn đoán mắc phải tùy thuộc vào loại tế bào máu trở thành ung thư. Các loại bệnh bạch cầu cũng khác nhau về xu hướng tiến triển nhanh hay chậm. Bệnh bạch cầu thường được mô tả là cấp tính (phát triển nhanh) hoặc mãn tính (phát triển chậm). Một số dạng bệnh bạch cầu phổ biến hơn ở trẻ em, trong khi những dạng khác xảy ra chủ yếu hoặc chỉ ở người lớn. Bốn phân nhóm rộng của bệnh bạch cầu là lymphoblastic cấp tính (ALL), myelogenous cấp tính (AML), lymphocytic mãn tính (CLL) và myelogenous mãn tính (CML).

Dưới đây là thông tin thêm về các loại bệnh bạch cầu khác nhau, được phân loại theo tốc độ tiến triển của chúng và loại tế bào bạch cầu bị ảnh hưởng:

Bệnh bạch cầu cấp tính

Khi các tế bào máu bất thường là các tế bào máu chưa trưởng thành (bạch cầu) nhân lên nhanh chóng, khiến bệnh tiến triển rất nhanh. Bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính (ALL) là loại bệnh bạch cầu phổ biến nhất ở trẻ nhỏ nhưng cũng có thể phát triển ở người lớn. Bệnh bạch cầu tủy cấp tính (AML) là loại bệnh bạch cầu cấp tính phổ biến nhất ở người lớn.

Bệnh bạch cầu mãn tính

Bệnh bạch cầu mãn tính liên quan đến các tế bào máu trưởng thành hơn tái tạo hoặc tích lũy chậm hơn. So với bệnh bạch cầu cấp tính, bệnh bạch cầu mãn tính có xu hướng ít gây ra các triệu chứng đáng chú ý hơn và có thể không được chẩn đoán trong thời gian dài hơn (đôi khi nhiều năm). Bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL) là bệnh bạch cầu mãn tính phổ biến nhất ở người trưởng thành.

Bệnh bạch cầu lymphocytic

Bệnh bạch cầu lymphocytic ảnh hưởng đến các tế bào bạch huyết (hoặc tế bào lympho). Các tế bào bạch huyết tạo thành mô bạch huyết và tạo nên hệ thống miễn dịch.

Bệnh bạch cầu dòng tủy

Bệnh bạch cầu dòng tủy ảnh hưởng đến các tế bào dòng tủy. Các tế bào dòng tủy có liên quan đến sự biệt hóa tế bào và giúp các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tế bào sản xuất tiểu cầu hình thành.

Bệnh bạch cầu tế bào lông

Bệnh bạch cầu tế bào lông một loại ung thư hiếm gặp, phát triển chậm trong đó tủy xương tạo ra quá nhiều tế bào lympho B. Các tế bào lympho B bất thường trông “có lông” khi nhìn dưới kính hiển vi, do đó có tên là bệnh bạch cầu tế bào lông.

Hội chứng rối loạn sinh tủy

Hội chứng rối loạn sinh tủy (còn gọi là suy tủy xương), tên gọi của một nhóm bệnh rối loạn tủy xương trong đó tủy xương không sản xuất đủ các tế bào máu khỏe mạnh.

Rối loạn tăng sinh tủy

Rối loạn tăng sinh tủy là tên gọi của một nhóm bệnh ung thư máu phát triển chậm, trong đó tủy xương tạo ra quá nhiều tế bào hồng cầu, bạch cầu hoặc tiểu cầu bất thường.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của bệnh bạch cầu

Các chuyên gia vẫn chưa biết chính xác tại sao bệnh bạch cầu phát triển, mặc dù người ta tin rằng đó là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường.

Bệnh bạch cầu hình thành khi các tế bào máu có đột biến DNA, làm thay đổi cách tế bào phát triển và hoạt động. Các tế bào ung thư có thể phát triển và phân chia nhanh hơn bình thường, đồng thời tiếp tục sống mà không chết theo chương trình. Khi các tế bào bất thường tiếp tục sinh sôi nảy nở, chúng sẽ lấn át các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu khỏe mạnh. Một loại thay đổi DNA phổ biến có thể dẫn đến bệnh bạch cầu được gọi là chuyển đoạn nhiễm sắc thể, trong đó DNA từ một nhiễm sắc thể bị đứt ra và gắn vào một nhiễm sắc thể khác. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng của cơ thể trong việc kiểm soát cách thức tế bào phân chia và ngăn chặn sự hình thành khối u.

Mặc dù vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về các nguyên nhân cơ bản của bệnh bạch cầu, nhưng các nhà nghiên cứu đã có thể xác định một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ phát triển một số loại bệnh bạch cầu. Tuy nhiên, điều quan trọng cần chỉ ra là nhiều người mắc bệnh bạch cầu không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào đã biết và việc có nguy cơ cao hơn không nhất thiết có nghĩa là người đó chắc chắn sẽ mắc bệnh bạch cầu.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh bạch cầu:

– Điều trị ung thư trước đây, bao gồm cả hóa trị và/hoặc xạ trị. Bất kỳ phương pháp điều trị nào ức chế hệ thống miễn dịch đều có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch cầu;

– Rối loạn/bất thường di truyền, bao gồm hội chứng Down, hội chứng Li-Fraumeni, u xơ thần kinh và thiếu máu Fanconi. Các yếu tố di truyền được thừa hưởng từ cha mẹ của đứa trẻ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em, tuy nhiên hầu hết các trường hợp bệnh bạch cầu không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân di truyền nào đã biết;

– Tiếp xúc với một số chất độc/ hóa chất, bao gồm benzen có trong xăng, thuốc trừ sâu và xạ trị;

– Đã ngoài 70 tuổi;

– Là nam giới;

– Là người da trắng, đặc biệt là người gốc Do Thái, gốc Nga hoặc Do Thái Đông u;

– Hút thuốc hoặc uống quá nhiều rượu;

– Tiền sử gia đình mắc bệnh bạch cầu hoặc có anh chị em bị bệnh bạch cầu;

– Ở trẻ em, các tình trạng ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch bao gồm Ataxia-telangiectasia, hội chứng Wiskott-Aldrich, hội chứng Bloom hoặc hội chứng Shwachman-Diamond;

– Béo phì hoặc rất thừa cân;

– Phơi nắng quá nhiều.

Chẩn đoán bệnh bạch cầu

Bệnh bạch cầu có thể được chẩn đoán bằng nhiều xét nghiệm khác nhau bao gồm:

– Khám sức khỏe, trong đó bác sĩ sẽ tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu thực thể nào của bệnh bạch cầu và thảo luận về các triệu chứng;

– Xét nghiệm máu, để kiểm tra mức độ bất thường của hồng cầu hoặc bạch cầu hoặc tiểu cầu. Trong một số trường hợp, một người nào đó có thể không có bất kỳ triệu chứng bệnh bạch cầu đáng chú ý nào nhưng được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu mãn tính khi xét nghiệm máu định kỳ. Những người khác có thể đến gặp bác sĩ vì họ đang bị nhiễm trùng, mệt mỏi và các triệu chứng khác do lượng bạch cầu thấp hoặc thiếu máu;

– Xét nghiệm hoặc sinh thiết tủy xương để tìm tế bào ung thư bạch cầu;

– Phết máu ngoại vi, để kiểm tra xem các tế bào có “lông” hay không;

– Phân tích tế bào học, để kiểm tra các bất thường nhiễm sắc thể;

– Hồ sơ gene toàn diện để tìm kiếm một số gene nhất định;

– Chụp CT-scanner, để tìm các hạch bạch huyết bị sưng hoặc lá lách to.

Giai đoạn hoặc cấp độ ung thư mà một người mắc phải đề cập đến mức độ ung thư của họ đã tiến triển và/hoặc lan rộng khắp cơ thể họ. Bệnh bạch cầu không được phân giai đoạn như hầu hết các bệnh ung thư khác vì nó không liên quan đến sự phát triển và lan rộng của khối u. Nó bắt đầu trong tủy xương và nhanh chóng di chuyển vào máu, vì vậy các tế bào ung thư bạch cầu hầu như luôn lan rộng khắp cơ thể. Khi bệnh tiến triển, các tế bào ung thư bạch cầu có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể bao gồm gan, lá lách, hạch bạch huyết, tinh hoàn hoặc hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống).

Có một số hệ thống được sử dụng để phân loại bệnh bạch cầu, bao gồm phân loại của Pháp-Mỹ-Anh (FAB) và phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các loại bệnh bạch cầu cấp tính thường được phân giai đoạn dựa trên loại tế bào liên quan và cách nhìn của tế bào dưới kính hiển vi. Thay vì phân loại giai đoạn bệnh bạch cầu cấp tính, một số bác sĩ thích sử dụng các phân loại: Không điều trị (các triệu chứng đang được kiểm soát), thuyên giảm (số lượng tế bào bất thường thấp và không có triệu chứng) và tái phát (khi bệnh đã quay trở lại sau khi được điều trị).

Bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính (CML), một loại ung thư phát triển chậm, thường được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn mãn tính, giai đoạn tăng tốc và giai đoạn nổ/khủng hoảng. Các giai đoạn này dựa trên tỷ lệ tế bào bạch cầu chưa trưởng thành được tìm thấy trong máu hoặc tủy xương. Giai đoạn mạn tính (giai đoạn sớm nhất) là khi tìm thấy ít hơn 10% nguyên bào trong mẫu máu hoặc tủy xương, giai đoạn tăng tốc là khi tủy xương hoặc mẫu máu có hơn 10% nhưng ít hơn 20% nguyên bào và giai đoạn nguyên bào là khi tủy xương và/hoặc mẫu máu có hơn 20% tế bào blasts.

BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)