Sự thật về ung thư ở phụ nữ
Một số bệnh ung thư thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhất là ung thư vú, đại trực tràng, nội mạc tử cung, phổi, cổ tử cung, da và buồng trứng. Biết về những bệnh ung thư này và những gì chúng ta có thể làm để giúp ngăn ngừa hoặc phát hiện sớm bệnh và tăng cơ hội điều trị thành công.
Ung thư vú
Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng nguy cơ sẽ tăng lên khi chúng ta già đi. Mọi phụ nữ nên biết về những nguy cơ mắc bệnh ung thư vú và những gì họ có thể làm để giúp giảm nguy cơ.
Phát hiện ung thư vú sớm khi nó còn nhỏ, chưa lan rộng và có thể dễ điều trị hơn, có thể giúp ngăn ngừa tử vong do căn bệnh này. Làm xét nghiệm sàng lọc thường xuyên là cách đáng tin cậy nhất để phát hiện sớm ung thư vú:
– Phụ nữ từ 40 – 44 tuổi nên bắt đầu sàng lọc ung thư vú hàng năm bằng chụp quang tuyến vú.
– Phụ nữ từ 45 – 54 tuổi nên chụp quang tuyến vú hàng năm.
– Phụ nữ từ 55 tuổi trở lên có thể chuyển sang chụp quang tuyến vú 2 năm một lần hoặc có thể tiếp tục sàng lọc hàng năm.
– Việc sàng lọc nên tiếp tục miễn là người phụ nữ có sức khỏe tốt.
Tất cả phụ nữ nên hiểu những gì sẽ xảy ra khi chụp quang tuyến vú để sàng lọc ung thư vú, phương pháp này có thể và không thể làm gì. Họ cũng nên làm quen với hình dáng và cảm giác bình thường của bộ ngực và báo cáo ngay mọi thay đổi cho bác sĩ.
Phụ nữ có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú (do tiền sử gia đình, đột biến gene hoặc các yếu tố nguy cơ khác) nên được sàng lọc bằng MRI cùng với chụp quang tuyến vú.
Ung thư đại trực tràng
Ung thư đại trực tràng là ung thư bắt đầu ở đại tràng hoặc trực tràng. Một số yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng bao gồm thừa cân hoặc béo phì, ít hoạt động thể chất, chế độ ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, hút thuốc, nghiện rượu nặng, lớn tuổi và có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng hoặc polyp.
Sàng lọc ung thư đại trực tràng thường xuyên là một trong những vũ khí mạnh nhất chống lại ung thư đại trực tràng. Hầu hết các bệnh ung thư đại trực tràng đều bắt đầu bằng polyp (một khối u nhỏ trên niêm mạc đại tràng hoặc trực tràng). Sàng lọc có thể giúp phát hiện sớm ung thư đại trực tràng, khi nó còn nhỏ, chưa lan rộng và có thể dễ điều trị hơn. Một số xét nghiệm sàng lọc nhất định cũng có thể giúp ngăn ngừa ung thư đại trực tràng bằng cách tìm và loại bỏ polyp trước khi chúng chuyển thành ung thư:
– Đàn ông và phụ nữ nên bắt đầu sàng lọc thường xuyên ở tuổi 45.
– Những người có sức khỏe tốt và có tuổi thọ trên 10 năm nên tiếp tục sàng lọc ung thư đại trực tràng định kỳ cho đến tuổi 75.
– Đối với những người từ 76 – 85 tuổi, quyết định sàng lọc phải dựa trên nhu cầu, tuổi thọ, sức khỏe tổng thể và lịch sử sàng lọc trước đó của họ.
– Những người trên 85 tuổi không nên sàng lọc ung thư đại trực tràng nữa.
– Xét nghiệm phân
– Xét nghiệm hóa miễn dịch phân có độ nhạy cao (FIT) hàng năm, hoặc;
– Xét nghiệm máu ẩn trong phân dựa trên guaiac có độ nhạy cao (gFOBT) hàng năm, hoặc;
– Xét nghiệm DNA phân đa mục tiêu (MT-sDNA) cứ sau 3 năm.
Khám trực quan đại tràng và trực tràng
– Nội soi đại tràng 10 năm một lần, hoặc;
– Chụp CT đại tràng (nội soi ảo) 5 năm một lần, hoặc;
– Nội soi đại tràng sigma linh hoạt cứ sau 5 năm.
Nếu một người chọn sàng lọc bằng một xét nghiệm khác ngoài nội soi, bất kỳ kết quả xét nghiệm bất thường nào cũng phải được theo dõi bằng nội soi.
Những người có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư đại trực tràng dựa trên tiền sử gia đình và/hoặc cá nhân hoặc các yếu tố khác có thể cần: Bắt đầu sàng lọc trước 45 tuổi, được sàng lọc thường xuyên hơn hoặc làm các xét nghiệm cụ thể.
Ung thư nội mạc tử cung
Ung thư nội mạc tử cung là bệnh ung thư phát triển tại nội mạc tử cung (lớp lót bên trong tử cung). Nguy cơ ung thư nội mạc tử cung tăng lên khi phụ nữ già đi. Những yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ hormone, như dùng estrogen mà không có progesterone và dùng tamoxifen để điều trị ung thư vú hoặc để giảm nguy cơ ung thư vú có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư này ở phụ nữ. Có kinh sớm, mãn kinh muộn, có tiền sử vô sinh hoặc không có con cũng có thể làm tăng nguy cơ. Phụ nữ có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng không polyp di truyền hoặc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) hoặc những người béo phì cũng có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung cao hơn. Phụ nữ bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng cũng có thể tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung.
Không có xét nghiệm sàng lọc nào để phát hiện sớm ung thư nội mạc tử cung ở những phụ nữ có nguy cơ trung bình và không có triệu chứng. Ở thời kỳ mãn kinh, tất cả phụ nữ nên được thông báo về những nguy cơ và triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung. Phụ nữ nên báo cáo bất kỳ hiện tượng tiết dịch, chảy máu âm đạo bất thường (trở nên nặng hơn, xảy ra giữa các kỳ kinh hoặc xảy ra sau khi mãn kinh) cho bác sĩ.
Những phụ nữ mắc hoặc có khả năng mắc ung thư đại trực tràng không polyp di truyền nên xét nghiệm hàng năm bằng sinh thiết nội mạc tử cung bắt đầu từ tuổi 35.
Phụ nữ nên nói chuyện với bác sĩ về nguy cơ mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung và về việc khám vùng chậu thường xuyên. Điều quan trọng cần biết là xét nghiệm Pap rất hữu ích trong việc phát hiện ung thư cổ tử cung. Đôi khi nó có thể phát hiện một số bệnh ung thư nội mạc tử cung sớm, nhưng nó không phải là xét nghiệm đặc hiệu để phát hiện ung thư nội mạc tử cung.
Ung thư phổi
Ung thư phổi thường xảy ra nhất do tiếp xúc với hóa chất và các hạt khác trong không khí. Mặc dù hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư phổi nhưng không phải tất cả những người mắc bệnh ung thư phổi đều hút thuốc.
Không phải tất cả các bệnh ung thư phổi đều có thể phòng ngừa được. Nhưng có những điều chúng ta có thể làm có thể giúp giảm thiểu rủi ro. Nếu chúng ta không hút thuốc, đừng hút thuốc và tránh hít phải khói thuốc của người khác.
Nếu chúng ta hiện đang hút thuốc hoặc đã hút thuốc, ở độ tuổi từ 50 – 80 và có sức khỏe khá tốt, nên sàng lọc ung thư phổi bằng chụp CT hàng năm.
Ung thư cổ tử cung
Nhiễm trùng mãn tính do một số loại papillomavirus ở người (HPV) là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư cổ tử cung. Chúng ta có thể bị nhiễm virus qua tiếp xúc thân mật giữa da kề da, chẳng hạn như quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng với người nhiễm virus. Các yếu tố nguy cơ khác gây ung thư cổ tử cung bao gồm hút thuốc, hệ thống miễn dịch suy yếu, bị nhiễm chlamydia, thừa cân, tiếp xúc hoặc sử dụng một số phương pháp điều trị bằng hormone và không xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung thường xuyên.
Tránh hút thuốc và giúp bảo vệ khỏi virus HPV bằng cách sử dụng bao cao su. Vaccin HPV có thể bảo vệ chống lại một số bệnh nhiễm trùng HPV liên quan đến ung thư.
Khuyến nghị tiêm phòng HPV cho bé gái và bé trai từ 9 – 12 tuổi. Trẻ em và thanh niên từ 13 – 26 tuổi chưa được tiêm vaccin hoặc chưa tiêm đủ liều nên tiêm vaccin càng sớm càng tốt. Tiêm chủng ở độ tuổi được khuyến nghị sẽ giúp ngăn ngừa nhiều bệnh ung thư hơn so với tiêm chủng ở độ tuổi lớn hơn.
Việc xét nghiệm sàng lọc thường xuyên có thể giúp tìm ra những thay đổi ở cổ tử cung để có thể điều trị trước khi chúng trở thành ung thư. Các xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung là xét nghiệm HPV và xét nghiệm Pap. Xét nghiệm HPV tìm kiếm các bệnh nhiễm trùng do các loại HPV có thể gây ra tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm Pap xem xét các tế bào lấy từ cổ tử cung để tìm ra những thay đổi có thể là ung thư hoặc tiền ung thư. Sàng lọc thường xuyên có thể giúp phát hiện sớm ung thư cổ tử cung, khi nó còn nhỏ, chưa lan rộng và có thể dễ điều trị hơn:
– Xét nghiệm ung thư cổ tử cung nên bắt đầu ở tuổi 25. Những người dưới 25 tuổi không nên xét nghiệm.
– Những người trong độ tuổi từ 25 – 65 nên làm xét nghiệm HPV cơ bản 5 năm một lần. Xét nghiệm HPV cơ bản là xét nghiệm HPV được tự thực hiện để sàng lọc. Nếu chúng ta không thể làm xét nghiệm HPV lần đầu, hãy làm xét nghiệm đồng thời cả xét nghiệm HPV kết hợp xét nghiệm Pap)5 năm một lần hoặc xét nghiệm Pap 3 năm một lần.
– Những người trên 65 tuổi đã xét nghiệm ung thư cổ tử cung thường xuyên trong 10 năm qua với kết quả bình thường không nên xét nghiệm ung thư cổ tử cung. Kết quả gần đây nhất phải trong vòng 3 – 5 năm qua. Những người có tiền sử tiền ung thư cổ tử cung nghiêm trọng nên tiếp tục xét nghiệm ít nhất 25 năm sau khi chẩn đoán, ngay cả khi xét nghiệm đã qua tuổi 65.
– Những người đã cắt bỏ toàn bộ tử cung nên ngừng xét nghiệm.
– Những người đã được tiêm vaccin HPV vẫn nên tuân theo các khuyến nghị sàng lọc cho nhóm tuổi của họ.
Ung thư da
Bất cứ ai cũng có thể bị ung thư da, nhưng những người có làn da trắng có nhiều khả năng bị ung thư da hơn những người có làn da sẫm màu. Hầu hết các bệnh ung thư da tế bào đáy và tế bào vảy là do da tiếp xúc nhiều lần và không được bảo vệ với tia cực tím (UV) từ ánh sáng mặt trời, cũng như từ các nguồn nhân tạo như giường tắm nắng. Một loại ung thư da gọi là khối u ác tính ít phổ biến hơn một số loại ung thư da khác, nhưng nguy hiểm hơn vì nó có nhiều khả năng phát triển và lan rộng. Những người từng mắc các loại ung thư da khác và những người có thành viên thân thiết trong gia đình mắc khối u ác tính có nguy cơ mắc khối u ác tính cao hơn.
Cách quan trọng nhất để giảm nguy cơ mắc hầu hết các bệnh ung thư da là hạn chế tiếp xúc với tia UV. Khi ra ngoài, hãy cố gắng ở trong bóng râm, đặc biệt là vào giữa ngày. Nếu chúng ta sắp ra nắng, hãy đội mũ có vành, áo sơ mi dài tay, đeo kính râm và sử dụng kem chống nắng phổ rộng có chỉ số SPF ít nhất là 30 cho tất cả các vùng da hở. Không sử dụng giường hoặc đèn tắm nắng.
Hãy nhận biết tất cả các nốt ruồi và đốm trên da của chúng ta và báo cáo ngay mọi thay đổi cho bác sĩ cũng như nên khám sức khỏe tổng quát và khám da liễu định kỳ.
Bệnh ung thư buồng trứng
Mặc dù ung thư buồng trứng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng nó có nhiều khả năng xảy ra hơn khi phụ nữ già đi. Những phụ nữ chưa từng có con hoặc sinh con đầu lòng sau 35 tuổi có thể có nguy cơ mắc bệnh ung thư này cao hơn. Những phụ nữ chỉ sử dụng estrogen làm liệu pháp thay thế hormone cũng có nguy cơ cao hơn. Phụ nữ có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng không polyp di truyền, ung thư buồng trứng hoặc ung thư vú có nhiều khả năng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Nhưng những phụ nữ không có bất kỳ tình trạng hoặc yếu tố nguy cơ nào trong số này vẫn có thể bị ung thư buồng trứng.
Hiện nay, không có xét nghiệm sàng lọc ung thư buồng trứng nào được khuyến nghị cho những phụ nữ không có nguy cơ mắc bệnh cao. Xét nghiệm Pap không phát hiện được ung thư buồng trứng, nhưng khám vùng chậu nên là một phần trong quá trình khám sức khỏe định kỳ của phụ nữ. Ngoài ra còn có một số xét nghiệm có thể được sử dụng ở những phụ nữ có triệu chứng hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư buồng trứng. Chúng ta nên gặp bác sĩ ngay lập tức nếu có bất kỳ triệu chứng nào sau đây trong hơn một vài tuần:
– Bụng to lên, kể cả khi giảm cân.
– Các vấn đề về tiêu hóa (bao gồm đầy hơi, chán ăn).
– Đau bụng hoặc vùng chậu.
– Cảm giác như chúng ta cần đi tiểu mọi lúc.
Nói chuyện với bác sĩ về nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng và liệu có những xét nghiệm nào phù hợp hay không.
Những điều sau có thể giúp giảm nguy cơ ung thư
– Tránh xa thuốc lá.
– Đạt được và duy trì cân nặng khỏe mạnh.
– Hãy tập thể dục thường xuyên.
– Thực hiện theo mô hình ăn uống lành mạnh bao gồm nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt, đồng thời hạn chế hoặc tránh các loại thịt đỏ/đã qua chế biến và thực phẩm đã qua chế biến nhiều.
– Tốt nhất là không nên uống rượu. Nếu uống rượu, hãy uống không quá 1 ly mỗi ngày đối với phụ nữ.
– Bảo vệ làn da.
– Biết tiền sử bản thân, tiền sử gia đình và rủi ro của mình.
– Hãy khám sức khỏe định kỳ và xét nghiệm tầm soát ung thư.
BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)