Đóng

Thuốc nam chữa ung thư

Nấm mã bột là vị thuốc hay chữa bệnh ung thư

Mã bột là vị thuốc thường dùng trong y học cổ truyền được dùng trong các bài thuốc chữa các bệnh đau họng, xuất huyết, vết thương lở loét. Không chỉ vậy, Mã bột còn hay xuất hiện trong các phương thuốc tự nhiên chữa ung thư.

Nấm mã bột là vị thuốc hay chữa bệnh ung thư

 

Mã bột đa hình (Lycoperdon polymorphum Vitt. hoặc (Bovista polymorpha Vitt.) và Mã bột hình lê (Lycoperdon pyriforme Sehaeff. Ex Pers.) và Mã bột lưỡng vân (Lycoperdon perlatum Pers.), thuộc họ Mã bột (Lycoperdaceae), các loại nấm này còn được gọi là nấm cầu gai. Trong đông y thường dùng Mã bột lưỡng vân để làm thuốc hơn cả.

Mã bột thường có ở những nơi đất ẩm bìa rừng, trên gỗ mục, hoặc bãi cỏ ẩm ướt (nhìn rất giống quả bóng golf, và hay bị các golf thủ nhầm lẫn khi nhìn từ xa). Ở nước ta, Mã bột phân bố ở các tỉnh miền Bắc. Đôi khi, nấm mã bột còn được gọi là cá nóc bởi vẻ ngoài tròn và có gai xung quanh.

Vị thuốc Mã bột trong y học cổ truyền

Theo y học cổ truyền, Mã bột có vị cay; tính bình, nhẹ và rỗng (tân, bình, khinh, hư) nên còn có tên gọi khác là Khinh mã bột. Có tác dụng: Thanh phế giải nhiệt, tán huyết chỉ khái. Vị thuốc này thường được dùng trong các trường hợp phế nhiệt, yết hầu sưng đau (yết tý hầu thống), ho khan hoặc ho khạc đờm (khái thấu), mất tiếng (thất âm), các chứng xuất huyết (nục huyết, thổ huyết, khái huyết, tiện huyết…); dùng bên ngoài để trị mụn nhọt, vết thương lở loét (sang thương).

Mã bột thường được bào chế dạng bột, dùng uống và rắc bên ngoài vùng da tổn thương.

Liều lượng: 2 – 6g mỗi ngày, bọc vải xô hoặc túi lọc, sắc uống (thường kết hợp với các vị thuốc đông y khác). Ngoài dùng làm thuốc sắc, cũng có thể bào chế Mã bột thành dạng thuốc tán, thuốc viên.

Để trị mụn nhọt, các vết thương bên ngoài, Mã bột đã được nghiền bột liều lượng vừa phải, rắc trực tiếp hoặc hòa với nước bôi lên tổn thương.

Ngoài ra, Mã bột non còn được thu hái làm thực phẩm, ăn rất ngon và có mùi thơm, nhất là loại Mã bột đa hình và Mã bột hình lê.

Mã bột, thuốc hay trị ung thư

Theo nghiên cứu, Mã bột (Lycoperdon perlatum) có tổng hàm lượng phenolic – flavonoid cao, do đó có khả năng chống oxy hóa mạnh.

Phân tích dinh dưỡng chỉ ra rằng Mã bột là nguồn cung cấp protein, carbohydrate, chất béo và một số vi chất dinh dưỡng tốt. Các axit béo chiếm ưu thế là axit linoleic (37%), axit oleic (24%), axit palmitic (14,5%), và axit stearic (6,4%).

Một số dẫn xuất steroid đã được phân lập và xác định từ quả thể Mã bột bao gồm (S)-23-hydroxylanostrol, ergosterol α-endoperoxide, ergosterol 9,11-dehydroendoperoxide và (23E)-lanosta-8,23-dien-3β, 25-diol. Các hợp chất 3-octanone, 1-octen-3-ol, và (Z)-3-octen-1-ol là các thành phần chủ yếu của các hóa chất dễ bay hơi tạo ra mùi thơm và mùi vị của nó.

Trong y học cổ truyền, Mã bột thường dùng trong các phương thuốc chữa ung thư. Tương ứng y học hiện đại, nấm Mã bột là vị thuốc tiềm năng trong điều trị ung thư. Mã bột đã được nghiên cứu tác dụng ức chế tế bào ung thư S-180 (ung thư liên kết) lên đến 100%, gây độc tế bào ung thư vú người MCF-7, ức chế tăng trưởng dòng tế bào ung thư phổi người A549… Điều này cho thấy tiềm năng to lớn của Mã bột trong việc chữa ung thư.

U nguyên bào đệm (GBM) là một khối u ác tính của hệ thần kinh trung ương (não hoặc tủy sống) phát sinh từ các tế bào hình sao. Một nghiên cứu đánh giá tác dụng chống u thần kinh đệm của các chất chiết xuất từ các loại nấm như ​​nấm mực (Coprinus comatus), nấm mồng gà (Cantharellus cibarius), nấm Mã bột (Lycoperdon perlatum) và nấm sữa (Lactarius deliciosus). Chất chiết xuất từ ​​nấm ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và sinh tổng hợp DNA của các tế bào ung thư. Cơ chế chống u thần kinh đệm bao gồm ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư và cảm ứng quá trình apoptosis (chết theo chương trình) liên quan đến việc bắt giữ các tế bào ở pha subG1 hoặc G2 / M của chu kỳ tế bào, và ức chế hoạt động của metalloproteinase.

Ngoài công dụng chữa bệnh ung thư ra, Mã bột còn có tác dụng kháng khuẩn mạnh mẽ. Chiết xuất quả thể Mã bột có chứa hoạt tính kháng khuẩn với các vi khuẩn gây bệnh của vi khuẩn gây bệnh ở người như Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus, Escherichia coli Salmonella enterica serovar Typhimurium, Streptococcus pyogenes, Mycobacterium smegmatisPseudomonas aeruginosa, với hoạt tính tương đương với kháng sinh Ampicillin… Mã bột còn có hoạt tính kháng nấm chống lại Candida albicans, C. tropicalis, Aspergillus fumigatus, Alternaria solani, Botrytis cinereaVerticillium dahliae.

Không chỉ để làm thuốc, nấm Mã bột khi còn non còn được dùng trong ẩm thực, đây là loại nấm ngon, chế biến được nhiều món ăn. Nấm Mã bột có thể trở thành nguyên liệu thành phần cho món ăn bài thuốc giúp phòng và điều trị ung thư.

BS. Nguyễn Thùy Ngân