Đóng

Thông tin bệnh ung thư

Cơ chế bệnh sinh và sự tiến triển của ung thư

Ngày nay nhờ những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực sinh học phân tử người, chúng ta đã biết bệnh ung thư do nhiều nguyên nhân gây ra. Một tác nhân gây ung thư có thể gây ra một số loại ung thư và ngược lại một loại ung thư có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Vậy bệnh ung thư phát sinh và phát triển như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu dưới đây.

Cơ chế bệnh sinh và sự tiến triển của ung thư

 

Đại cương bệnh ung thư

Theo WHO, ung thư là một nhóm lớn các bệnh có thể bắt đầu ở hầu hết mọi cơ quan hoặc mô của cơ thể khi các tế bào bất thường phát triển không kiểm soát, vượt ra ngoài ranh giới thông thường của chúng để xâm lấn các bộ phận liền kề của cơ thể và/ hoặc lan sang các cơ quan khác. Quá trình thứ hai được gọi là di căn và là nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư. Khối u ác tính là tên phổ biến khác của bệnh ung thư.

Ung thư xảy ra do sự đột biến trong DNA, làm tế bào tăng sinh vô độ, vô tổ chức, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển cơ thể.

Các tính chất đặc trưng của tế bào ung thư, bao gồm:

– Tránh được apoptosis (chết theo chương trình);

– Có khả năng phát triển vô hạn;

– Tự cung tự cấp các yếu tố phát triển;

– Không nhạy cảm với các yếu tố chống tăng sinh;

– Tốc độ phân bào tăng;

– Không có khả năng ức chế tiếp xúc;

– Thay đổi khả năng biệt hóa tế bào;

– Khả năng tăng sinh mạch máu;

– Khả năng xâm lấn mô xung quanh;

– Khả năng di căn đến nơi xa.

Với những hiểu biết về vai trò của gene sinh ung bướu và gene ức chế khối u cùng các khám phá mới về sự sinh mạch (angiogenesis), chết tế bào theo chương trình (apoptosis), sự sửa chữa vật chất di truyền có thể giúp chúng ta có được những hiểu biết về cơ chế sinh ung từ đó làm cơ sở cho một liệu pháp điều trị mới: Liệu pháp nhắm trúng đích (targeted therapy).

Gene ung bướu và sự phát sinh ung thư

Đường dẫn truyền tín hiệu tế bào: Vai trò của tiền gene sinh ung (proto oncogene) với chức năng điều hòa đường dẫn truyền tín hiệu đến tế bào để nhận các kích thích cho sự phân bào và chết theo chương trình. Người ta chia tiền gene sinh ung thư làm 4 phần:

– Các yếu tố tăng trưởng;

– Các thụ thể của yếu tố tăng trưởng;

– Các tín hiệu dẫn truyền;

– Các yếu tố sao chép nhân tế bào.

Chết tế bào theo chương trình: Đây là một cơ chế quan trọng trong cơ thể bình thường để duy trì sự cân bằng giữa tế bào sinh ra và tế bào chết đi. Về mặt ung thư thì đây là cơ hội để sửa chữa DNA của tế bào hay loại bỏ tế bào bị đột biến có tiềm năng sinh ung thư.

Tăng số lượng tế bào và ung thư: Tăng số lượng tế bào không phù hợp là một trong các điểm mấu chốt của quá trình sinh ung thư.

Yếu tố tăng sinh mạch: Các nhà nghiên cứu đã chứng minh các khối u đặc có kích thước 2 – 3mm vẫn trạng thái ngủ yên nếu không có mạch máu nuôi. Cơ chế sinh mạch trùng lặp trong sự xâm lấn và di căn của khối u. Nên có sự phối hợp các chất kháng sinh mạch với hóa trị nhằm làm chậm phát triển u và ngăn ngừa di căn.

Cơ chế tăng sinh dòng tế bào: Khi đột biến xảy ra gene tiền ung thư sẽ tạo một dòng tế bào có ưu thế tăng sinh và sinh sản thành một dòng tế bào u, khởi đầu cho một ung thư.

Có 3 kiểu làm tăng sinh một dòng tế bào:

– Tế bào bị đột biến sinh ra quá nhiều thụ thể yếu tố tăng trưởng: Tăng nhạy cảm với kích thích tăng trưởng và nó tăng sinh như là một khối u đơn dòng;

– Tế bào bị đột biến làm mất thụ thể yếu tố tăng trưởng: Làm mất cơ chế kiểm soát ngược dẫn đến sản xuất nhiều yếu tố tăng trưởng;

– Tế bào bị đột biến sinh ra quá nhiều yếu tố tăng trưởng: Tế bào này tự nhạy với chính các yếu tố tăng trưởng của nó, tăng sinh như một khối u đơn dòng độc chương với yếu tố bên ngoài và đó là một u ác tính rõ.

Gene ức chế khối u

Gene ức chế khối u có vai trò làm chậm lại sự phân chia tế bào, nó hoạt động cùng với hệ thống sửa chữa DNA cần thiết cho việc duy trì tính ổn định của vật chất di truyền gene ức chế khối u ngăn cản thể lặn, cả hai bản sao của gene phải bị đột biến mới không được sự tăng trưởng tế bào bị thương tổn. Khi gene ức chế khối u bị đột biến, khiếm khuyết DNA có thể được di truyền qua tế bào mầm và là nguyên nhân của các hội chứng di truyền dễ bị ung thư.

Tỷ lệ mắc bệnh ung thư tăng lên đáng kể theo tuổi tác, rất có thể là do sự tích tụ các yếu tố rủi ro đối với các bệnh ung thư cụ thể tăng theo tuổi tác. Sự tích lũy rủi ro tổng thể được kết hợp với xu hướng các cơ chế sửa chữa tế bào kém hiệu quả hơn khi một người già đi.

Các giai đoạn phát triển của ung thư

Ung thư phát sinh từ sự biến đổi của tế bào bình thường thành tế bào khối u trong một quá trình gồm nhiều giai đoạn, thường tiến triển từ tổn thương tiền ung thư thành khối u ác tính. Các giai đoạn phát triển của ung thư như sau.

Giai đoạn khởi phát

Bắt đầu từ tế bào gốc do tiếp xúc với các tác nhân gây đột biến, làm thay đổi không hồi phục của tế bào. Quá trình diễn ra nhanh và hoàn tất trong một vài giây và không thể thay đổi được. Tuy nhiên các nhà khoa học chưa xác định được ngưỡng gây khởi phát. Trong cuộc đời một con người thì có nhiều tế bào có thể trải qua quá trình khởi phát, nhưng không phải tất cả các tế bào đều phát sinh bệnh. Đa số các tế bào khởi phát hoặc không tiến triển, hoặc là chết đi, hoặc là bị cơ chế miễn dịch vô hiệu hóa.

Giai đoạn tăng trưởng, chuyển biến

Đây là các giai đoạn sau giai đoạn khởi phát; bao gồm sự chọn lọc dòng tế bào, sự thay đổi thể hiện gene, sự tăng sinh của tế bào khởi phát. Sự tăng sinh của tế bào ung thư còn mức độ nhỏ, khư trú một mô nhỏ nào đó.

Giai đoạn lan tràn

Tiếp theo các giai đoạn trên, ung thư có thể chuyển sang giai đoạn lan tràn. Giai đoạn này có thể diễn ra trong vài tháng và cũng có thể kéo dài vài năm. Ở giai đoạn này khối u bành trướng, gia tăng có thể từ 100 tế bào đến hơn 1 triệu tế bào. Tuy nhiên vẫn còn quá nhỏ để phát hiện bằng phương pháp phân tích được.

Giai đoạn tiến triển

Đặc trưng của giai đoạn này là sự tăng lên của kích thước khối u. Ở người bình thường số tế bào được tạo ra bằng số tế bào chết, luôn giữ mức hằng định. Khi bị ung thư, tế bào sinh sản vô hạn độ dẫn đến sự phá vỡ mức hằng định.

Giai đoạn xâm lấn, di căn

Sự xâm lấn nhờ các đặc tính:

– Tính di động của tế bào ung thư;

– Mất sự ức chế tiếp xúc của tế bào;

– Khả năng tiêu protein các mô kế cận.

Các con đường di căn của ung thư:

– Di căn theo đường mạch bạch huyết: Gặp nhiều trong ung thư biểu mô (carcinoma). Đầu tiên có thể lan tràn tại chỗ và đôi khi làm tắc mạch bạch huyết, rồi lan đi;

– Di căn theo đường kề cận: Các tế bào ác tính đi theo các mạch máu, thần kinh, theo đường ít khi bị cản trở như: Ung thư dạ dày lan qua lớp thanh mạc vào ổ bụng, rồi đến buồng trứng…

– Di căn theo đường máu: Gặp nhiều trong ung thư liên kết (sarcoma). Khi đi theo đường máu, tế bào dừng ở mao mạch và tăng trưởng đó.

BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)