Các vị thuốc Đông y thường được kê trong đơn thuốc hỗ trợ điều trị ung thư
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều loại thuốc Đông y (ví dụ như Nhân sâm, Hoàng kỳ, Đảng sâm và Phục linh) có đặc tính bổ khí huyết đóng vai trò quan trọng trong điều trị ung thư.
Dựa trên lý thuyết y học cổ truyền, sự hình thành khối u thường là do thiếu hụt khí huyết trong cơ thể, kết hợp với một số yếu tố gây bệnh như tà khí xâm nhập (lục dâm), những thất thường về mặt cảm xúc (thất tình), ăn uống và làm việc quá độ… dẫn đến tình trạng khí ứ trệ, huyết ứ và độc tố do nhiệt ẩm gây ra trong cơ thể, sau đó hình thành u cục. Theo lý thuyết trên, các vị thuốc Đông y thường được kê trong đơn hỗ trợ điều trị ung thư thường thuộc ba loại: Loại thứ nhất có đặc tính bổ khí huyết, loại thứ hai có đặc tính thúc đẩy lưu thông máu và loại thứ ba có đặc tính thanh nhiệt và giải độc. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều loại thuốc Đông y (ví dụ như Nhân sâm, Hoàng kỳ, Đảng sâm và Phục linh) có đặc tính bổ khí huyết đóng vai trò quan trọng trong điều trị ung thư với cơ sở được tóm tắt như sau:
– Cải thiện chức năng hệ thống miễn dịch.
– Bảo vệ quá trình tạo máu của tủy xương.
– Điều hòa chức năng tiêu hóa.
Một số vị thuốc đại bổ nguyên khí (làm tươi mới năng lượng sống)
Nhân sâm
Nhân sâm là một vị thuốc nổi tiếng và phổ biến, được coi là vua của các loại thảo mộc ở phương Đông. Nhân sâm được cho là chứa nhiều thành phần hoạt tính bao gồm ginsenosides, tinh dầu, peptidoglycan, polysaccharides, hợp chất chứa nitơ, axit béo và hợp chất phenolic. Các nghiên cứu dược lý hiện đại đã chỉ ra rằng Nhân sâm và các thành phần hoạt tính của nó có tác dụng chống khối u, chống oxy hóa, điều hòa miễn dịch, chống loét, chống dính, chống oxy hóa, bảo vệ gan, hạ đường huyết… Chúng được cho là có tác dụng phòng ngừa ung thư phổi, dạ dày, gan, tuyến tụy và ruột kết… ở tế bào, động vật hoặc con người. Một nghiên cứu dịch tễ học chỉ ra rằng những bệnh nhân dùng nhân sâm có nguy cơ tái phát ung thư thấp hơn 50% so với những bệnh nhân không dùng nhân sâm.
Một nghiên cứu của Hàn Quốc cho thấy tiềm năng Nhân sâm là phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối về việc cải thiện đáp ứng và tỷ lệ sống sót. Hơn nữa, chiết xuất Nhân sâm có thể giúp bảo vệ tổn thương mô khỏi các cytokine gây viêm ở trẻ em sau khi hóa trị, có thể liên quan đến việc giảm các biến chứng muộn ở trẻ em. Ngoài ra, Nhân sâm dường như là một chất bảo vệ chống bức xạ đầy hứa hẹn và có khả năng làm giảm tác động có hại của bức xạ lên mô bình thường của con người, đặc biệt là đối với bệnh nhân ung thư đang xạ trị, có thể liên quan đến đặc tính chống oxy hóa và điều hòa miễn dịch của nó.
Hoàng kỳ
Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus Bge. Var. mongholicus), đã được sử dụng trong hơn 2000 năm trong các đơn thuốc của Y học cổ truyền để điều trị vết cắn và chất độc của động vật, vết thương và vết bỏng, viêm thận, tiểu đường, albumin niệu, tăng huyết áp, xơ gan và nhiều loại ung thư khác nhau. Các cuộc điều tra thành phần hóa học của Hoàng kỳ chỉ ra rằng nó chứa một số thành phần có hoạt tính sinh học bao gồm isoflavonoid, saponin triterpenoid, polysaccharides, axit amin butyric và nhiều nguyên tố vi lượng khác nhau; trong đó saponin triterpenoid đại diện cho các thành phần có lợi chính chịu trách nhiệm cho các hoạt tính sinh học và hiệu quả của Hoàng kỳ đối với sức khỏe con người. Các nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy Hoàng kỳ và các thành phần hoạt tính của nó có tính chống oxy hóa, chống khối u, bảo vệ gan, chống tiểu đường, kháng khuẩn, kháng vi-rút và tăng cường miễn dịch. Chúng được đề xuất có tác dụng chống ung thư đối với ung thư vú, dạ dày, gan, ruột kết, phổi… ở tế bào, động vật hoặc con người. Thông qua việc ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư, điều hòa miễn dịch, ức chế sự hình thành mạch máu mới hoặc giảm tác dụng phụ của thuốc hóa trị, chúng đóng vai trò quan trọng trong liệu pháp điều trị ung thư.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng thuốc sắc Hoàng Kỳ có thể làm giảm tỷ lệ bệnh nhân bị buồn nôn và nôn và giảm tỷ lệ giảm bạch cầu ở bệnh nhân ung thư đại tràng được điều trị bằng hóa trị. Ngoài ra, để nghiên cứu tác dụng của tiêm Hoàng kỳ đối với tiên lượng ngắn hạn ở trẻ em mắc bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính (ALL), kết quả cho thấy sử dụng Hoàng kỳ kết hợp với hóa trị liệu có tác dụng chống khối u tăng cường và có thể cải thiện tiên lượng ngắn hạn và kết quả lâm sàng ở nhóm trẻ này. Hoàng kỳ có thể làm giảm tình trạng ức chế tủy xương do hóa trị liệu hoặc kích thích quá trình tạo máu của tủy xương và làm tăng mức bạch cầu hạt, sau đó làm giảm tỷ lệ lây nhiễm ở trẻ em mắc ALL. Ngoài ra, có báo cáo rằng một số thuốc sắc thuốc y học cổ truyền có thành phần chính là Hoàng kỳ có thể ngăn ngừa và làm giảm hiệu quả tình trạng xuất hiện và cường độ của độc tính thần kinh ngoại biên cấp tính do oxaliplatin gây ra.
Đảng sâm
Đảng sâm là rễ khô của Codonopsis pilosula (Franch.) Nannf., thuộc họ Campanulaceae. Đảng sâm đã được sử dụng trong hàng ngàn năm để điều trị chứng khó tiêu, chán ăn, mệt mỏi và rối loạn thần kinh với đặc tính làm ấm bụng, kiện tỳ và dưỡng phế. Trong nhiều trường hợp, nó được sử dụng chủ yếu để thay thế cho Nhân sâm đắt tiền hơn nhiều và do đó được gọi là nhân sâm của người nghèo.
Một số báo cáo chỉ ra rằng các thành phần hoạt tính sinh học chính là sterol, triterpen, glycoside, alkaloid, polysaccharides… Nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy Đảng sâm và các thành phần hoạt tính của nó có chức năng chống oxy hóa, kháng khuẩn, chống khối u và cải thiện khả năng miễn dịch. Theo các nghiên cứu cơ bản và lâm sàng, chúng được báo cáo là đóng vai trò quan trọng trong liệu pháp điều trị ung thư thông qua việc ức chế sự phát triển của ung thư, điều hòa miễn dịch, ngăn chặn sự xâm lấn và di cư hoặc giảm tác dụng phụ của thuốc hóa trị. Đảng sâm có thể gây tăng sinh tế bào lympho lách, ức chế sự suy giảm nồng độ IL-2 trong huyết thanh và cải thiện chức năng miễn dịch ở chuột. Polysaccharides từ Đảng sâm thể hiện tác dụng ức chế đáng kể đối với sự phát triển, xâm lấn và di chuyển của tế bào khối u ở tế bào ung thư biểu mô buồng trứng ở người. Có một báo cáo rằng một số loại thuốc sắc có thành phần chính là Đảng sâm có thể cải thiện hiệu quả các triệu chứng lâm sàng, dấu hiệu và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư gan.
Phục Linh
Phục Linh là một vị thuốc được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường, kiết lỵ, hội chứng mệt mỏi mãn tính, tiêu chảy, chóng mặt, phù nề, mất ngủ, các vấn đề về thận, căng thẳng, các vấn đề về tiểu tiện và suy nhược. Theo ghi chép của Dược điển Trung Quốc (phiên bản 2010), khoảng 10% chế phẩm Đông y có chứa Phục Linh. Thành phần hóa học của Phục Linh chủ yếu bao gồm triterpen, polysaccharides, steroid, axit amin, choline, histidine…
Các nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy nấm Phục Linh và một số thành phần hoạt tính của nó có chức năng chống ung thư, chống viêm, chống oxy hóa, kháng vi-rút và cải thiện khả năng miễn dịch. Theo các nghiên cứu cơ bản và lâm sàng, một số thành phần hoạt tính của Phục Linh đóng vai trò quan trọng trong liệu pháp điều trị ung thư thông qua việc ức chế sự phát triển của ung thư, điều hòa miễn dịch, ngăn chặn sự xâm lấn và di cư hoặc giảm tác dụng phụ của thuốc hóa trị trong bệnh bạch cầu, ung thư phổi, ung thư đại tràng… Triterpenes từ Phục Linh có thể gây ra chứng apoptosis của tế bào bạch cầu (HL60) và phổi (A549) thông qua các con đường thụ thể ty thể hoặc thụ thể chết. Hoạt chất này cũng có thể ngăn chặn sự phát triển và xâm lấn của các tế bào ung thư tuyến tụy thông qua việc điều hòa giảm MMP-7. Ngoài ra, một đánh giá có hệ thống đã đánh giá bằng chứng lâm sàng về việc bổ sung thuốc thảo dược vào phác đồ hóa trị FOLFOX 4 cho bệnh ung thư đại tràng tiến triển tại phòng khám. Kết quả chỉ ra rằng Phục Linh là một trong những loại thảo mộc được sử dụng thường xuyên nhất kết hợp với hóa trị liệu phác đồ FOLFOX4 có thể cải thiện hiệu quả tỷ lệ đáp ứng của khối u, tỷ lệ sống sót sau một năm và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nó cũng có thể làm giảm các tác dụng phụ liên quan đến hóa trị bao gồm giảm bạch cầu trung tính, buồn nôn và nôn, và độc tính thần kinh, so với hóa trị liệu phác đồ FOLFOX4 đơn thuần.
Các vị thuốc có đặc tính thanh nhiệt, giải độc
Bạch hoa xà thiệt thảo
Bạch hoa xà thiệt thảo từ lâu đã được biết đến như một thành phần của các loại trà thảo mộc phổ biến và là một vị thuốc nổi tiếng ở phương Đông và châu Á nhiệt đới. Ba nhóm hợp chất chính, bao gồm triterpen, polysaccharides và anthraquinone, đã được báo cáo là các hợp chất hoạt tính sinh học chính từ loại thảo mộc này. Bạch hoa xà thiệt thảo và một số thành phần hoạt tính của nó có nhiều hoạt tính dược lý đã được báo cáo, bao gồm các đặc tính chống ung thư, phòng ngừa ung thư, bảo vệ gan, kháng vi-rút, kháng khuẩn, chống tiểu đường, chống oxy hóa và bảo vệ dạ dày. Nó được ứng dụng rộng rãi trong điều trị các chứng viêm như viêm ruột thừa, viêm niệu đạo và viêm phế quản, viêm gan, viêm amidan và đau họng do hoạt tính kháng khuẩn của nó. Gần đây, các hoạt chất từ Bạch hoa xà thiệt thảo đã ngày càng được chú ý như một loại thảo dược chống khối u ở gan, phổi, tuyến tiền liệt, ruột kết, não, tuyến tụy và các loại ung thư khác. Chiết xuất ethanol của nó có thể ức chế sự phát triển của ung thư đại tràng ở chuột. Ngoài ra, một nghiên cứu cắt ngang về mô hình kê đơn và lý do sử dụng Y học cổ truyền cho bệnh nhân ung thư đại tràng sau phẫu thuật ở Đài Loan đã được phân tích và kết quả chỉ ra rằng Bạch hoa xà thiệt thảo là loại thảo dược đơn lẻ được kê đơn phổ biến nhất cho bệnh ung thư đại tràng.
Bán chi liên
Bán chi liên đã được sử dụng như một chất chống viêm và chống khối u để điều trị viêm gan, xơ gan, áp xe phổi, viêm ruột thừa, viêm tủy xương, nôn ra máu, chảy máu cam, kiết lỵ, vàng da, đau họng, nhọt độc, tràng nhạc và khối u ác tính trong nhiều năm. Thành phần hóa học của Bán chi liên chủ yếu bao gồm axit phenolic, flavonoid, axit triterpene và sterol glucoside. Gần đây, Bán chi liên và các hoạt chất được sử dụng như một loại thảo dược chống khối u trong điều trị ung thư vú ở người, ung thư tuyến tiền liệt, bệnh bạch cầu, ung thư biểu mô gan, ung thư biểu mô tử cung, ung thư biểu mô cổ tử cung, ung thư biểu mô phổi, ung thư da, ung thư biểu mô đại tràng, ung thư biểu mô tuyến thận, ung thư biểu mô vòm họng và ung thư biểu bì miệng.
Cơ chế cơ bản của hoạt động chống ung thư của Bán chi liên dường như liên quan đến tổn thương DNA, kiểm soát chu kỳ tế bào, liên kết axit nucleic, phosphoryl hóa và khử phosphoryl hóa protein và chức năng của tế bào dendrit. Chiết xuất ethanol của Bán chi liên có thể gây ra apoptosis tế bào ung thư ruột kết, ức chế sự tăng sinh tế bào và hình thành mạch máu mới của khối u và thay đổi biểu hiện của nhiều gen mục tiêu quan trọng trong các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên cơ thể sống. Bán chi liên có thể ổn định bệnh hiệu quả và cải thiện các tác dụng phụ của hóa trị hoặc xạ trị như rối loạn chức năng gan, tiêu chảy, mệt mỏi và đau.
Một số vị thuốc thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ huyết ứ
Đương quy
Đương quy (Angelicae Sinensis Radix có cả đặc tính nuôi dưỡng máu và thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ ứ máu. Nó thường được sử dụng để tăng cường kinh mạch tim, phổi và gan, cũng như bôi trơn ruột. Hơn nữa, nó được gọi là “nhân sâm nữ” vì được sử dụng cho các tình trạng sức khỏe khác nhau của phụ nữ bao gồm đau bụng kinh, đau vùng chậu, phục hồi sau khi sinh con và các triệu chứng mãn kinh. Hơn 70 hợp chất đã được xác định từ Đương quy, bao gồm các loại tinh dầu như ligustilide, butylphthalide và senkyunolide A, dimer phthalide, axit hữu cơ và este của chúng như axit ferulic, coniferyl ferulate, polyacetylenes, vitamin và axit amin. Đương quy và các hoạt chất của nó có nhiều hoạt động dược lý đã được báo cáo, bao gồm chức năng chống khối u, bảo vệ thần kinh, điều hòa miễn dịch và bảo vệ tim mạch.
Gần đây, một số báo cáo chỉ ra rằng Đương quy và một số thành phần hoạt tính (ví dụ: Z-Ligustilide) thể hiện tác dụng chống ung thư tuyệt vời ở ung thư gan, tuyến tiền liệt và miệng thông qua việc gây ra apoptosis, sửa đổi tình trạng kháng nhiều loại thuốc hoặc điều chỉnh hoạt động của tế bào lympho và cải thiện khả năng miễn dịch. Ngoài ra, thuốc sắc có chứa Đương quy có thể tăng cường độ nhạy cảm với bức xạ của tế bào ung thư gan ở người bằng cách điều chỉnh protein apoptosis phụ thuộc caspase.
Nghệ
Nghệ (Curcuma longa), được sử dụng ở Châu Á trong hàng ngàn năm để tạo màu và hương vị cho thực phẩm cũng như để điều trị nhiều loại bệnh như tiểu đường, xơ vữa động mạch, mụn trứng cá, vàng da, đau bụng kinh, cũng như ung thư. Một số báo cáo chỉ ra rằng trong số tất cả các loại gia vị, nghệ đã được chứng minh là có tiềm năng chống ung thư tốt hơn. Các curcuminoid, ví dụ như curcumin, demethoxycurcumin và bisdemethoxycurcumin, là các thành phần chính của nghệ và chúng được báo cáo là có nhiều hoạt động dược lý bao gồm các đặc tính chống viêm, chống oxy hóa và chống ung thư.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cơ chế phân tử chống ung thư của nó liên quan đến việc ngăn chặn chu kỳ tế bào, hình thành mạch máu mới và di căn. Nó cũng có tác dụng hiệp đồng khi kết hợp với thuốc hóa trị liệu như cyclophosphamide, doxorubicin, mitomycin… Ngoài ra, nghiên cứu tiền lâm sàng sâu rộng trong thập kỷ qua trên nuôi cấy tế bào và trên động vật đã tiết lộ rằng curcumin có thể làm cho khối u nhạy cảm với các tác nhân hóa trị liệu khác nhau bao gồm doxorubicin, 5-FU, paclitaxel, vincristine, oxaliplatin, etoposide, v.v. trong nhiều loại ung thư (ví dụ như vú, đại tràng, tuyến tụy, dạ dày, gan, máu, phổi, tuyến tiền liệt và buồng trứng). Các nghiên cứu tương tự cũng cho thấy curcumin làm cho nhiều loại khối u nhạy cảm hơn bao gồm u thần kinh đệm, u nguyên bào thần kinh, ung thư cổ tử cung, ung thư biểu bì, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư đại tràng với xạ trị. Hơn nữa, curcumin cũng đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ các cơ quan bình thường như gan, thận, niêm mạc miệng và tim khỏi độc tính do hóa trị và xạ trị gây ra.
BS. Tú Uyên (Thọ Xuân Đường)