Bán chi liên có tác dụng chống lại căn bệnh ung thư
Bán chi liên là vị thuốc dùng để chống viêm, trị các bệnh về gan, chống ung bướu… y học cổ truyền. Bán chi liên hay phối cùng với Bạch hoa xà thiệt thảo trong các phương thuốc thảo dược chữa ung thư và được nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh tác dụng này.

Bán chi liên có tác dụng chống lại căn bệnh ung thư
Tìm hiểu về cây Bán chi liên
Bán chi liên còn được gọi là Hoàng cầm râu, Thẩm râu, có tên khoa học: Scutellaria barbata D. Don hoặc Scutellaria rivularis Wall; họ: Bạc hà (Lamiaceae).
Bán chi liên phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, bao gồm Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc, Nepal, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Tại Việt Nam, cây Bán chi Liên thường gặp ở các tỉnh miền núi như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Hải Dương (vùng Chí Linh), Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị…
Về đặc điểm thực vật, Bán chi liên là cây thân thảo, mọc bò, cao khoảng 15 – 20cm. Thân hình trụ nhỏ, mọc đứng, nhẵn hoặc có lông nhỏ. Lá hình trứng, mọc đối, dài khoảng 1 – 3cm, rộng khoảng 0,7 – 0,8cm, lá cây hình nêm hoặc hình tim, đầu nhọn, mép khía răng, mặt dưới lá màu nhạt; những lá gần ngọn không cuống, những lá dưới có cuống mảnh. Cụm hoa mọc ở kẽ lá có màu tím lam, lá bắc dạng lá; hình chuông, dài khoảng 1,5 – 2mm, nhẵn hoặc hơi có lông, có đường sống rõ; tràng có màu xanh lơ, dài khoảng 1cm, hơi loe ở đầu, chia môi; nhị 4, dính vào 1/3 dưới của tràng, không thò ra ngoài, chỉ nhị có lông ở gốc; bầu nhẵn. Quả nhẵn hoặc có lông, hình trứng cứng. Mùa hoa vào khoảng tháng 11.
Cây Bán chi liên non mọc từ hạt khoảng tháng 4 – 5, sinh trưởng và phát triển nhanh vào mùa hè, sau mùa quả, cây có thể tàn lụi vào mùa thu. Hạt bán chi liên nhỏ, phát tán gần, vì vậy, trong tự nhiên cây thường mọc quần tụ thành đám nhỏ.
Bán chi liên đã sử dụng từ xa xưa trong y học cổ truyền phương Đông để điều trị nhiễm khuẩn, viêm gan và khối u. Loại thảo dược này cũng được dùng làm thuốc lợi tiểu. Không nên nhầm lẫn với cây Hoàng cầm (Scutellaria baicalensis).
Thành phần hóa học và tác dụng của Bán chi Liên
Bán chi liên là cây dược liệu tiềm năng trong việc chống lại bệnh ung thư và một số bệnh khác. Các nghiên cứu in vitro cho thấy rằng Bán chi liên có tính kháng khuẩn, có chứa các chất chống oxy hóa, các chất chống đột biến và các chất chống ung thư trong thành phần hóa hoc. Một số thành phần bao gồm flavonoid được cho là chịu trách nhiệm cho các tác dụng này. Các mô hình nghiên cứu trên động vật cũng chứng minh hoạt động chống ung thư của Bán chi liên trên nhiều loại ung thư. Tuy nhiên, các phương pháp chiết xuất khác nhau và / hoặc nguồn gốc thực vật mang lại các mức độ tác dụng chống ung thư khác nhau.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã phân lập được 131 hợp chất từ các loài Bán liên chi, bao gồm các flavonoid, alkaloid, diterpen, triterpenoid, polysaccharid, tinh dầu và một số hợp chất khác. Hàm lượng các thành phần hóa học được chiết xuất từ cây Bán chi liên có sự thay đổi đáng kể phụ thuộc vào điều kiện trồng trọt (bao gồm khí hậu và thổ nhưỡng), thời vụ thu hoạch. Do vậy, các tác dụng dược lý của Bán chi liên cũng có thể có sự thay đổi.
Theo các nghiên cứu, Bán chi liên có chứa 49 hợp chất flavonoid và các dẫn xuất, bao gồm các flavone, flavonoid glycoside, chalcone, flavanone. Trong đó 4-hydroxy wogonin, apigenin, scutellarin, luteolin, baicalein và apigenin 5- O-β-glucopyranoside được chứng minh là có tác dụng chống ung thư. Trong đó, đáng lưu ý nhất là tác dụng trên bệnh ung thư của hợp chất scutellarin thuộc nhóm flavone, một loại hợp chất hóa học phenolic.
Việc xác định cấu trúc của hoạt chất scutellarin do Guido Goldschmiedt thực hiện trong nhiều năm từ 1901 đến 1910. Scutellarin đã được chứng minh là gây ra chết tế bào theo chương trình trên tế bào ung thư buồng trứng và tế bào ung thư vú in vitro. Giá trị LD50 (liều lượng của một chất gây độc có thể làm chết 50 % số động vật thí nghiệm, đơn vị tính thường là mg/kg động vật) của scutellarin là 1314 mg/kg, tiêm tĩnh mạch trên chuột.
Nghiên cứu trên chuột có khối u rắn Sarcoma 180, Scutellarein làm giảm đáng kể ALT/AST huyết thanh, các hoạt độ ALP và ức chế đáng kể sự phát triển của khối u trong cơ thể. Đây là tiềm năng trong việc điều trị bệnh ung thư gan trên lâm sàng.
Gần đây nhất, nghiên cứu của Ke Y. và Bao TH. cho thấy, điều trị bằng scutellarin (50mg/kg/ngày) trong 35 ngày làm giảm đáng kể sự di căn của khối ung thư phổi và HCC (ung thư biểu mô tế bào gan) trong cơ thể người. Scutellarin làm giảm đáng kể khả năng sống sót của tế bào HepG2 (dòng tế bào ung thư gan ở người) phụ thuộc liều, và ức chế di chuyển, xâm lấn các tế bào HCC (ung thư biểu mô tế bào gan) in vitro; ức chế hoạt động đáng kể STAT3/Girdin/Akt tế bào HCC (ung thư biểu mô tế bào gan) trong cơ thể. Ngoài ra, scutellarin còn có những tác dụng khác như kháng khuẩn, chống viêm, bảo vệ cơ tim, cải thiện chức năng thần kinh.
Bán chi liên có thành phần diterpenoid dồi dào, đã phân lập được hơn 50 loại neo-clerodane diterpenoid. Một số hợp chất diterpene này thể hiện rõ tác dụng gây độc tế bào chống lại một số dòng tế bào ung thư người trên các thử nghiệm in vitro.
Nghiên cứu của Dai S.J. và cộng sự (2006), bằng phương pháp quang phổ, đã tìm ra cấu trúc của các hợp chất neo-Clerodane diterpenoids từ cây Bán chi liên tên là barbatins A–C và neo-clerodane diterpenoid nicotinyl ester tên là scutebarbatine B. Các hợp chất trên gây độc đáng kể đối với ba dòng ung thư ở người in vitro, cụ thể là ung thư mũi họng HONE-1, ung thư biểu mô vòm miệng KB và tế bào ung thư đại trực tràng HT29, có giá trị IC50 (nồng độ ức chế tối đa 50%) trong khoảng 3,5-8,1 μM.
Yuan Q.Q. và cộng sự (2017) nghiên cứu thành phần hóa học bằng phương pháp phân tích quang phổ trong dịch chiết acetone 70% của toàn cây Bán chi liên phát hiện 6 neo-clerodane diterpenoids mới: scubatine A, B, C, D, E, F. Hoạt tính độc tính đối với dòng tế bào ung thư bạch cầu HL-60 và tế bào ung thư phổi A549 được đánh giá cho tất cả các hợp chất cô lập. Hợp chất 6 cho thấy hoạt tính gây độc tế bào đối với A549 và HL-60 với giá trị IC50 lần lượt là 10,4 và 15,3 μM.
Polysaccharide của cây Bán chi liên có tác dụng chống oxy hoá in vitro. Polysaccharides của Bán chi liên còn có tác dụng chống ung thư với cơ chế hoạt động là tăng cường chức năng miễn dịch.
Hỗn hợp polysaccharide hòa tan trong nước được phân lập từ cây Bán chi liên là SPS2p. Thành phần monosaccharide của SPS2p này gồm có arabinose, mannose, glucose và galactose với tỷ lệ 1,31: 1,00: 3,59: 1,59. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy SPS2p có thể ức chế sự tăng sinh tế bào và thúc đẩy sự chết theo chương trình trên tế bào ung thư đại tràng HT29.
Ngoài việc nghiên cứu chứng minh tác dụng chống ung thư, Bán chi liên còn có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus.
Vị thuốc Bán chi Liên theo Y học cổ truyền
Bán chi liên có vị hơi đắng (vi khổ), tính mát (lương). Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu sưng, giảm đau.
Bán chi liên thường được dùng trong dân gian để hạ sốt, lợi tiểu; chữa trị khối u, áp xe phổi, lao phổi xơ, viêm gan, viêm ruột thừa, xơ gan cổ trướng. Dùng ngoài, lấy dùng Bán chi liên tươi với lượng vừa đủ, rửa thật sạch, giã nát đắp ngoài da và nấu nước rửa bên ngoài để trị rắn độc cắn, sâu bọ cắn đốt, các loại mụn nhọt sưng đau, viêm vú, viêm mủ da, sâu róm, đòn ngã tổn thương. Liều thường dùng của Bán chi liên theo y học cổ truyền từ 20 – 40g/ngày.
BS. Nguyễn Thùy Ngân