Triệu chứng và nguyên nhân của polyp đại tràng
Ung thư đại trực tràng hiện là nguyên nhân gây tử vong do ung thư phổ biến, thường bắt đầu bằng một “polyp”. Loại polyp đại tràng được gọi là adenoma là tiền thân của ung thư đại trực tràng. Mặc dù trong một số trường hợp, polyp đại tràng nhỏ sẽ phát triển thành ung thư theo thời gian, nhưng hầu hết các polyp đại tràng vẫn còn nhỏ, không gây ung thư và nói chung là vô hại.
Polyp được coi là rất phổ biến ở người lớn trên 60 tuổi, những người có khoảng 25 – 30% khả năng có polyp. Tuy nhiên, chúng ít phổ biến hơn ở những người trẻ tuổi, chẳng hạn như những người ở độ tuổi 20 hoặc 30.
Các bác sĩ rất khuyến khích người lớn trên 50 tuổi đến gặp bác sĩ để kiểm tra đại trực tràng thường xuyên, vì việc phát hiện polyp đại tràng ở giai đoạn sớm nhất sẽ hạn chế rất nhiều khả năng biến chứng. Một số thay đổi lối sống cũng có thể giúp giảm nguy cơ phát triển polyp đại tràng và ung thư đại trực tràng hoặc hỗ trợ phục hồi, bao gồm ăn một chế độ ăn chống viêm, bỏ hút thuốc, tập thể dục, bổ sung đủ canxi và vitamin D, đồng thời duy trì cân nặng khỏe mạnh.
Polyp đại tràng là gì?
Polyp đại tràng (hoặc polyp đại trực tràng) là một mảnh mô thừa, hoặc một cụm tế bào nhỏ, phát triển trên niêm mạc đại tràng. Polyp đại trực tràng có thể phát triển ở bất kỳ phần nào của đại tràng (nơi chất thải rắn di chuyển qua trước khi rời khỏi cơ thể) thường hình thành ở phía bên trái của đại tràng (đại tràng xuống) và/hoặc trong trực tràng. Trực tràng, nơi chứa phân trước khi bài tiết, bắt đầu ở phần cuối của đại tràng và kết thúc ở hậu môn.
Các loại polyp đại tràng
Có hai loại polyp đại tràng chính: Polyp không phải khối u và polyp khối u (bao gồm u tuyến/ u tuyến ống).
Polyp đại tràng không ung thư thường không trở thành ung thư. Chúng bao gồm polyp tăng sản, polyp viêm và polyp mô thừa.
Polyp tân sinh có nhiều khả năng trở thành ung thư, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy. Chúng bao gồm u tuyến và loại răng cưa.
Polyp neoplastic thường lớn hơn. Xác định kích thước polyp đại tràng là một phần quan trọng trong chẩn đoán vì polyp lớn hơn có nguy cơ gây ung thư cao hơn.
U tuyến (một loại polyp tân sinh) là một khối u của mô tuyến. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, “U tuyến là một polyp được tạo thành từ mô trông giống như lớp niêm mạc bình thường của đại tràng, mặc dù nó khác ở một số điểm quan trọng khi nhìn dưới kính hiển vi”. Người ta ước tính rằng 2/3 số polyp đại tràng là loại tiền ung thư được gọi là u tuyến và chỉ có khoảng 5% u tuyến tiến triển thành ung thư.
Polyp u tuyến không phải là một loại ung thư, nhưng chúng được coi là tiền ung thư (có nghĩa là chúng có thể biến thành ung thư).
U tuyến có thể có một số mô hình tăng trưởng khác nhau, bao gồm: Hình ống và nhung mao, hoặc hỗn hợp cả hai (được gọi là u tuyến ống nhung mao). Hầu hết là u tuyến hình ống nhỏ (dưới 1,5 cm), trong khi một số là u tuyến lớn hơn với mô hình phát triển dạng nhung mao có nhiều khả năng phát triển ung thư trong đó.
Khi quan sát dưới kính hiển vi, các polyp chỉ bất thường ở mức độ nhẹ được cho là mắc chứng loạn sản cấp độ thấp (nhẹ hoặc trung bình), trong khi các polyp bất thường hơn và trông giống ung thư hơn được cho là mắc chứng loạn sản cấp độ cao (nặng).
Triệu chứng và dấu hiệu của polyp đại tràng
Không phải tất cả mọi người có polyp đại tràng sẽ biết rằng họ có chúng; trên thực tế, hầu hết các polyp đại tràng không gây ra bất kỳ triệu chứng đáng chú ý nào.
Khi chúng xảy ra, các triệu chứng polyp đại tràng phổ biến nhất bao gồm:
– Chảy máu trực tràng (cũng có thể do các tình trạng khác, không phải polyp, bao gồm bệnh trĩ, hoặc các vết rách nhỏ ở mô hậu môn gây ra). Người bệnh có thể nhận thấy máu trên quần lót hoặc trên giấy vệ sinh sau khi đi tiêu.
– Máu trong phân hoặc những thay đổi khác trong màu phân của người bệnh, chẳng hạn như các vệt đỏ sẫm hoặc phân đen.
– Đau dạ dày, đau quặn bụng. Polyp đại tràng lớn có nhiều khả năng gây đau hơn vì chúng có thể làm tắc nghẽn một phần ruột của người bệnh.
– Táo bón hoặc tiêu chảy.
– Thiếu máu do thiếu sắt và chảy máu kéo dài. Chảy máu do polyp có thể làm cơ thể người bệnh cạn kiệt chất sắt, gây khó khăn cho việc sản xuất tế bào hồng cầu và vận chuyển oxy đi khắp cơ thể, dẫn đến các triệu chứng như mệt mỏi, suy nhược và khó thở.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ
Polyp đại tràng phát triển khi các tế bào phát triển và phân chia một cách bất thường bên trong đại tràng hoặc trực tràng, dẫn đến sự phát triển đủ lớn để làm tắc ruột. Điều này có thể xảy ra do viêm ruột già hoặc đột biến ở một số gen khiến tế bào tiếp tục phân chia khi bình thường chúng không làm như vậy.
Nghiên cứu cho thấy nguyên nhân gây ra polyp đại tràng và các yếu tố rủi ro có thể làm tăng khả năng phát triển polyp đại tràng bao gồm:
– Đã ngoài 50 tuổi;
– Là nam giới. Các nghiên cứu chỉ ra rằng nam giới có nhiều khả năng mắc ung thư đại tràng hơn và khả năng bị tổn thương tiến triển cao gấp đôi so với phụ nữ. Polyp tân sinh ảnh hưởng đến khoảng 2,9% phụ nữ ở độ tuổi 50 so với 4,7% nam giới cùng độ tuổi;
– Có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc polyp đại tràng hoặc ung thư đại trực tràng;
– Bị hội chứng rò rỉ ruột (hay còn gọi là tính thấm ruột) hoặc các vấn đề về viêm đường tiêu hóa hoặc bệnh viêm ruột (IBD), bao gồm viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn;
– Hội chứng chuyển hóa và mắc bệnh tiểu đường type 2. Những người mắc bệnh tiểu đường type 2 có tỷ lệ ung thư đại tràng tăng gấp 3 lần so với những người không mắc bệnh tiểu đường;
– Béo phì hoặc thừa cân. Các nghiên cứu được thực hiện ở Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã phát hiện tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng tăng gấp 2 – 3 lần ở những người thừa cân;
– Bị viêm mãn tính, bao gồm cả việc có lượng glucose và lipid lưu thông cao tạo ra môi trường oxy hóa;
– Có nồng độ IGF-I (yếu tố tăng trưởng giống như insulin) trong huyết thanh cao hơn so với người bình thường;
– Là một người hút thuốc;
– Tiêu thụ rượu cao;
– Thiếu tập thể dục/ lối sống ít vận động;
– Mắc chứng rối loạn di truyền hiếm gặp ảnh hưởng đến ruột và có thể khiến polyp đại tràng hình thành, bao gồm: Hội chứng Lynch (còn gọi là ung thư đại trực tràng không do polyp di truyền), Polyp tuyến thượng thận gia đình (FAP), Hội chứng Gardner, Polyp liên quan đến MYH (MAP), Peutz-Jeghers Hội chứng Polyposis răng cưa;
– Là người gốc Phi (Người gốc Phi cũng có nguy cơ mắc ung thư đại tràng cao hơn);
– Bị thiếu calci và/hoặc bị thiếu vitamin D.
Chẩn đoán bệnh polyp đại tràng
Người bệnh nên đến gặp bác sĩ nếu bắt đầu nhận thấy các triệu chứng mới như đau bụng, phân có máu và những thay đổi không giải thích được trong thói quen đại tiện của mình, đặc biệt nếu người bệnh có nguy cơ cao phát triển khối u hoặc ung thư đại trực tràng (ví dụ nếu người bệnh có tiền sử gia đình mắc bệnh này).
Bởi vì người bệnh có thể có polyp đại tràng và không gặp phải bất kỳ triệu chứng nào, điều quan trọng là phải thực hiện các xét nghiệm sàng lọc thường xuyên sau 50 tuổi, chẳng hạn như nội soi. Polyp ít có khả năng phát triển thành ung thư hoặc gây ra các vấn đề khác nếu chúng được cắt bỏ khi chúng còn nhỏ và ở giai đoạn đầu. Việc giám sát bằng nội soi có liên quan đến việc giảm 76 – 90% tỷ lệ mắc ung thư.
Các xét nghiệm sàng lọc được sử dụng để chẩn đoán polyp đại tràng bao gồm:
– Nội soi đại tràng, một xét nghiệm xâm lấn chụp để xem bên trong đại tràng của người bệnh. Nội soi đại tràng sử dụng một ống mềm, dài, mỏng có gắn camera và đèn ở đầu được đưa vào đại tràng;
– Nội soi đại tràng sigma linh hoạt, khi một ống được đưa vào trực tràng của người bệnh để kiểm tra phần dưới của đại tràng;
– Các xét nghiệm dựa trên phân để tìm máu.
Nếu bác sĩ tìm thấy một polyp đại tràng trong khi kiểm tra sàng lọc, bác sĩ sẽ thảo luận xem polyp có thể là ung thư hay tiền ung thư hay không.
Polyp đại tràng lớn thường là ung thư? Khi nói đến kích thước polyp đại tràng, polyp càng lớn thì càng có nhiều khả năng ung thư. Điều này đặc biệt đúng với polyp tân sinh, bao gồm u tuyến và loại có răng cưa (trông phẳng dưới kính hiển vi). Nhưng xin nhắc lại, có u tuyến không có nghĩa là người bệnh chắc chắn sẽ bị ung thư.
Mất bao lâu để polyp đại tràng biến thành ung thư? Người ta tin rằng có thể mất khoảng 10 năm để một u tuyến nhỏ chuyển thành polyp ung thư. Vì ung thư có thể mất nhiều thời gian để hình thành nên đây là lý do tại sao việc sàng lọc sớm và loại bỏ polyp trước khi quá muộn lại rất hữu ích.
Điều trị polyp đại tràng thông thường
Để giúp ngăn ngừa ung thư có khả năng hình thành, các bác sĩ thường loại bỏ polyp đại tràng và kiểm tra chúng. Điều quan trọng nhất là phải thực hiện nội soi nếu trong quá khứ người bệnh đã: Có một hoặc nhiều u tuyến trong vòng 5 năm trước, người bệnh đã có nhiều hơn 2 u tuyến kích thước khoảng 1cm hoặc lớn hơn, người bệnh đã có hơn 10 u tuyến, hoặc người bệnh có một u tuyến rất lớn đã được cắt bỏ gần đây.
Cắt bỏ polyp u tuyến. Nếu một u tuyến được tìm thấy trong quá trình nội soi, nó thường được lấy ra và sinh thiết để kiểm tra ung thư. Polyp có thể được loại bỏ theo nhiều cách, chẳng hạn như bằng một vòng dây (cắt polyp) hoặc một chất lỏng được tiêm vào mô xung quanh polyp để làm cho nó tách ra. Nội soi ổ bụng cũng có thể được thực hiện bằng cách đưa dụng cụ gọi là nội soi vào ruột.
Phẫu thuật cắt bỏ một u tuyến lớn. Khi u tuyến trở nên quá lớn để loại bỏ trong quá trình nội soi, có thể cần phải phẫu thuật để loại bỏ u tuyến.
Thật không may, các polyp đã được loại bỏ thường quay trở lại. Khoảng 30% bệnh nhân sẽ phát triển polyp mới sau khi loại bỏ, đó là lý do tại sao các xét nghiệm tiếp theo được khuyến nghị trong 3 – 5 năm tới. Có một số bằng chứng cho thấy uống aspirin hàng ngày hoặc các loại thuốc chống viêm không steroid khác (NSAID) có thể làm giảm nguy cơ hình thành khối u mới, nhưng điều này không đảm bảo và có thể góp phần gây ra tác dụng phụ.
Do đó, ngoài phẫu thuật ra, các biện pháp điều trị tự nhiên khác cũng góp phần tiêu u, chống tái phát polyp đại tràng. Nhà thuốc Thọ Xuân Đường với hơn 400 năm kinh nghiệm, bằng các phương pháp tự nhiên như dùng thuốc thảo dược kỳ môn y pháp, hướng dẫn chế độ ăn lành mạnh, giải độc cơ thể đã điều trị thành công cho nhiều bệnh nhân mắc polyp đại tràng.
Để đặt lịch khám tại Nhà thuốc Thọ Xuân Đường, vui lòng bấm số 0943986986 hoặc đặt lịch khám bệnh TẠI ĐÂY.
BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)