Ung thư phổi và yếu tố gen
Đối với bệnh lý ung thư nói chung và ung thư phổi nói riêng, người ta cũng đã có những ghi nhận về sự sai lệch ở cấp độ phân tử xảy ra nguyên phát do yếu tố di truyền hay thứ phát bởi sự tác động của các yếu tố độc hại như môi trường ô nhiễm, khói bụi độc hại, chế độ ăn uống, sinh hoạt không khoa học…
Gen là một đơn vị vật lý và chức năng cơ bản của di truyền, các gen được tạo thành từ ADN (Acid deoxyribonucleic) mang thông tin mã hóa cho một chuỗi polypeptide hay một phân tử ARN. Mỗi đoạn gen sẽ có trình tự sắp xếp các nucleotit khác nhau, tạo ra các mã di truyền. Gen có 2 loại chính là gen mã hóa và gen điều hòa. Gen mã hóa có nhiệm vụ mang thông tin di truyền mã hóa các protein cấu tạo nên cấu trúc và chức năng của tế vào, gen điều hòa giúp điều khiển và kiểm soát quá trình biểu hiện protein của các cơ quan trong cơ thể. Việc phát hiện và hoàn thiện bản đồ gen người vào năm 2003 đã giúp cho nhân loại có những bước tiến đột phá quan trọng. Từ đây, nhiều bệnh lý khó có thể can thiệp sâu hơn để sửa chữa những sai lệch về gen, cũng như những hiểu biết kỹ càng về sự phát sinh bệnh tật khi cá thể có mang gen bất thường. Và đối với bệnh lý ung thư nói chung và ung thư phổi nói riêng, người ta cũng đã có những ghi nhận về sự sai lệch ở cấp độ phân tử xảy ra nguyên phát do yếu tố di truyền hay thứ phát bởi sự tác động của các yếu tố độc hại như môi trường ô nhiễm, khói bụi độc hại, chế độ ăn uống, sinh hoạt không khoa học….
Riêng đối với bệnh lý ung thư phổi, người ta đã xác định có 16 gen EGFR, ALK, ROS1, HER2, KRAS, MEK1, MET, NRAS, NTRK1, PIK3CA, FGFR1, DDR2, BRAF, AKT1, RET, PTEN là những gen thường thấy đột biến ở ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Để tìm hiểu cụ thể hơn, trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu về ung thư phổi và nguyên nhân gây ra nó.
Ung thư phổi (tiếng Anh gọi là Lung Cancer, Lung Carcinoma) là bệnh lý ác tính khởi phát tại phổi với tỷ lệ mắc hơn 2.000.000 người và tỷ lệ tử vong 1.000.000 người/ 1 năm. Theo tổ chức y tế thế giới WHO thì ung thư phổi đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư ở nam giới và đứng thứ hai ở nữ giới. Tại Việt Nam, theo thống kê năm 2015, tỷ lệ mắc mới là 221.200 người, tổng số tử vong là 158.040 người, chiếm tỷ lệ 71,45%, tỷ lệ này đến nay đã gia tăng đáng kể. Đây là căn bệnh gây tử vong hàng đầu trong các loại ung thư. Theo báo cáo mới nhất của WHO thì ở Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư phổi đứng thứ 2 chỉ sau ung thư gan ở nam và sau ung thư vú ở nữ. Bệnh thường có tỷ lệ tử vong cao do tính chất tiến triển nhanh, dễ di căn, phát bệnh ở giai đoạn muộn. Bệnh ung thư phổi được mô tả lần đầu tiên bởi bác sĩ người Pháp Laennec vào năm 1805. Ung thư phổi được chia làm 2 loại lớn đó là ung thư phổi tế bào nhỏ – Small cell lung cancer (chiếm 15-20% các trường hợp) và ung thư phổi không tế bào nhỏ – Non small cell lung cancer (chỉ các biến đổi ác tính xảy ra ở các tế bào biểu mô, biểu mô tuyến, biểu mô tế bào lớn, chiếm khoảng 80-85% các trường hợp).
Ngày nay, người ta đã xác định được các nguyên nhân chính gây ra bệnh lý ung thư phổi. Nguyên nhân chính phải kể đến là khói thuốc thuốc lá, phóng xạ Radeon, bụi Amiang, ô nhiễm không khí, tiền sử mắc các bệnh lý tại phổi, biến đổi gen di truyền. Trong những yếu tố trên, yếu tố liên quan đến gen di truyền được xem là đặc biệt nhất. Yếu tố di truyền ở đây có thể là nguyên nhân nguyên phát gây ra bệnh lý ung thư phổi ở những người không có thói quen hút thuốc lá, không sống trong môi trường độc hại hoặc thứ phát sau khoảng thời gian dài tiếp xúc với các yếu tố độc hại, đặc biệt là khói thuốc lá. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và tìm ra được mối quan hệ nhân quả giữa việc hút thuốc lá và sự thay đổi về gen dẫn đến ung thư. Cụ thể, trong báo cáo của Tổng hội y khoa Hoa Kỳ công bố thuốc lá có đến 7.000 hóa chất độc hại, trong đó có 69 chất gây ung thư. Để xảy ra những biến đổi ác tính tại biểu mô hô hấp đòi hỏi người bệnh thường phải trải qua một quá trình dài tiếp xúc với tác nhân gây ung thư và tích tụ nhiều đột biến gen di truyền. Khi cơ thể tiếp xúc với khói thuốc theo con đường chủ động hoặc thụ động thì các độc chất này sẽ tác động lên niêm mạc đường hô hấp, từ đó làm rối loạn quá trình sao chép. Song song với quá trình này, để đối phó, cơ thể cũng sẽ thực hiện liên tục các hoạt động sửa chữa những sai sót hoặc đào thải độc tố ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, nếu tiếp xúc trường diễn với khói thuốc lá thì khả năng tích trữ các đột biến gen là hoàn toàn có thể. Từ những tích lũy này sẽ dẫn đến kết cục cuối cùng là bệnh lý ung thư phổi. Trong nhiều thập kỷ qua, những biến đổi về gen cụ thể đã được tìm thấy ở bệnh nhân ung thư phổi bao gồm 16 gen EGFR, ALK, KRAS, MEK1, MET, BRAF, NRAS, NTRK1, PIK3CA, FGFR1, DDR2, AKT1, RET, PTEN, ROS1, HER2 từ những đột biến ở các gen này gây ra sự rối loạn dẫn truyền nhận tín hiệu cho việc điều hòa sự nhân lên, phân chia của tế bào, ức chế chương trình chết đi của tế bào; từ đây, làm tăng sự nhân lên mất kiểm soát của các tế bào ác tính. Ngoài ra, những biến đổi liên quan đến các gen ức chế u như TP53, APC, dung hợp gen EML-4-ALK cũng được nhắc đến là căn nguyên khởi phát bệnh ung thư phổi. Cụ thể điển hình như:
– Gen EGFR: Được xem như thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì, là một protein trên bề mặt tế bào giúp chúng phát triển và phân chia. Khi một số tế bào ung thư phổi không tế bào nhỏ có quá nhiều protein này, khiến chúng phát triển nhanh hơn bình thường. Theo thống kê, có đến 50% người châu Á mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ có chứa đột biến EGFR, những đột biến này phổ biến ở cả phụ nữ, người không hút thuốc và người có xét nghiệm mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến.
– Gen ALK: Là viết tắt của Anaplastic lymphoma kinase, gen nằm trên nhiễm sắc thể số 2, gen tạo ra protein mã hóa thụ thể tyrosine kinase. Đột biến gen này được tìm thấy trong các khối u lympho tế bào lớn mất biệt hóa, u nguyên bào thần kinh, ung thư phổi không tế bào nhỏ. Gen ALK được tìm thấy và sắp xếp lại, đột biến, khuếch đại, từ đó làm thay đổi vật chất di truyền dẫn đến việc tạo nhiều gen hợp nhất để hình thành khối u. Có khoảng 3-7% các khối ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến gen ALK. Sự thay đổi này thường gặp ở những người trẻ tuổi và không hút thuốc. Nó cho phép các tế bào ung thư phát triển và lây lan.
– Gen KRAS: Gen này nằm trên nhiễm sắc thể số 12, nó thuộc họ gen sinh ung thư RAS bao gồm 2 gen nữa là HRAS và NRAS, chúng ảnh hưởng đến việc phân chia, biệt hóa và tự hủy của tế bào thông qua protein GTPase. Đây được coi là một trong những gen sinh ung thư phổ biến nhất. Đột biến gen KRAS được tìm thấy trong khoảng 30% tất cả các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, gặp nhiều ở những người có tiền sử hút thuốc lá.
– Gen TP53: Gen này nằm trên nhiễm sắc thể số 17, chịu trách nhiệm sản xuất các protein khối u p53. Nhiệm vụ của protein này là giám sát quá trình phát triển của các tế bào, kiểm tra và đảm bảo tính toàn vẹn của ADN, nó giữ cho các tế bào bị hư hỏng không phát triển quá nhanh hoặc không thể kiểm soát hay người ta thường gọi nó với tên khác là chất ức chế khối u. Đột biến này được phát hiện nhiều ở những bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá hoặc tiếp xúc thường xuyên với người hút thuốc lá. Nếu người bệnh có mang gen đột biến TP53 kết hợp đồng thời với đột biến gen EGFR, ALK hoặc ROS1 có liên quan đến thời gian sống sót ngắn hơn của bệnh nhân.
– Gen MET và METex14: Đây là gen tiền ung thư, có nhiệm vụ mã hóa cho thụ thể xuyên màng MET tyrosine kinase. Những dạng biến đổi của gen MET trong ung thư phổi không tế bào nhỏ là khuếch đại MET và đột biến trên exon 14 của MET, ngoài ra cũng có gen dung hợp của KIF5B-MET được coi là trường hợp cá biệt. Nếu ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến gen MET thường có xu hướng ác tính và phát triển mạnh mẽ hơn những bệnh nhân không có đột biến này.
– Gen BRAF: Gen BRAF nằm trên nhiễm sắc thể số 7, có nhiệm vụ tạo ra một loại protein giúp kiểm soát sự phát triển của tế bào, protein này có tác dụng điều hòa MAP kinase/ con đường truyền tín hiệu ERKs làm ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân bào. Đột biến BRAF có thể xuất hiện do di truyền hoặc do mắc phải nhưng tỷ lệ mắc phải vẫn phổ biến hơn. Khoảng 3-4% bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ xuất hiện đột biến gen BRAF. Hầu hết những người có những đột biến này là những người có tiền sử hút thuốc lá và nó phổ biến ở nữ giới nhiều hơn là nam giới.
– Gen ROS 1: Đây là gen nằm ở vị trí 6q22 trên nhiễm sắc thể số 6. Trong ung thư phổi không tế bào nhỏ, người ta đã phát hiện có xảy ra sự sắp xếp lại hoặc đứt gãy của gen ROS1 ở các vị trí exon 32, 34 hoặc 35. Đột biến này ảnh hưởng từ 1-2% các khối ung thư phổi không tế bào nhỏ. Nó thường được tìm thấy ở những người trẻ và không có tiền sử hút thuốc. Bệnh nhân ung thư phổi có đột biến gen ROS1 tiên lượng sẽ khó hơn những bệnh nhân không mang gen đột biến này. Hiện nay, có 3 đột biến gen được khuyến cáo xét nghiệm để lựa chọn thuốc điều trị trúng đích là EGFR, ALK và ROS1. Xét nghiệm gen EGFR và ALK được chỉ định thường quy trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, còn xét nghiệm ROS1 sẽ được chỉ định bổ sung khi EGFR và ALK âm tính.
Để hạn chế khả năng mắc ung thư phổi, chúng ta nên từ bỏ những thói quen gây hại cho cơ thể như hút thuốc lá, thuốc lào; làm sạch môi trường sống, sử dụng các thiết bị phòng hộ khi phải làm trong môi trường khói bụi độc hại; thực hiện lối sống lành mạnh, ăn uống sinh hoạt điều độ, tăng chế độ ăn giàu kiềm và chất chống oxy hóa; cuối cùng là thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện ra những bất thường sớm trong cơ thể.
Tại nhà thuốc Thọ Xuân Đường, hiểu rõ được cơ chế bệnh sinh và quy luật sinh học, cùng với khẩu hiệu “Nam Dược trị Nam nhân”, nhà thuốc đã linh hoạt, sáng tạo vận dụng Nam y đưa vào phác đồ hỗ trợ điều trị bệnh lý ung thư và chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư, giúp kiểm soát bệnh tật, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Ngoài phác đồ sử dụng thuốc, bệnh nhân còn được kết hợp thêm phương pháp châm cứu “Thần châm” và được hướng dẫn thực hiện chế độ ăn uống, tập luyện chuyên biệt dành cho bệnh nhân ung thư, giúp bệnh nhân có thể chữa lành toàn diện cả về thân, tâm, trí.
BS. Nguyễn Yến (Thọ Xuân Đường)