Tiềm năng của nghệ trong điều trị ung thư
Nghệ vàng không chỉ được dùng trong sinh hoạt hàng ngày mà nó còn là vị thuốc y học cổ truyền, hay sử dụng trong điều trị bệnh. Curcumin là một hoạt chất quan trọng trong nghệ và có nhiều ứng dụng như có khả năng kháng nấm, diệt khuẩn, diệt ký sinh trùng, chống viêm nhiễm, kháng ung thư, bảo vệ da… Tính đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học chứng minh khả năng ngăn ngừa và điều trị ung thư của hoạt chất này.

Tiềm năng của nghệ trong điều trị ung thư
Nghệ vàng hay còn gọi là Khương hoàng, có tên khoa học là Curcuma longa L. (Curcuma domestica Lour), thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Nghệ vàng là một cây thân rễ, có đặc điểm thân rễ to, có ngấn, phân nhánh thành nhiều củ, màu vàng sẫm đến vàng đỏ, rất thơm. Củ nghệ được biết đến như là thứ thuốc cách đây trên 5.000 năm, bộ phận thường dùng làm thuốc hoặc làm gia vị là phẫn thân rễ của nó, cây này được trồng phổ biến ở nhiều nơi như Việt nam, Trung quốc, Campuchia, Lào, Indonesia, Ấn độ… Nghệ vàng không chỉ được dùng trong sinh hoạt hàng ngày mà nó còn là vị thuốc y học cổ truyền, hay sử dụng trong điều trị bệnh.
Thành phần người ta có thể tìm thấy trong Nghệ bao gồm có Curcumin, tinh dầu, tinh bột, canxi oxalat, chất béo. Trong đó, Curcumin là một hoạt chất quan trọng và có nhiều ứng dụng như có khả năng kháng nấm, diệt khuẩn, diệt ký sinh trùng, chống viêm nhiễm, kháng ung thư, bảo vệ da… Tính đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học chứng minh khả năng ngăn ngừa và điều trị ung thư của hoạt chất này.
Ở quốc gia Ấn Độ, khi Nghệ vàng được xem là loại gia vị chính trong các bữa ăn thì người ta nhận thấy tỷ lệ số người mắc ung thư đại tràng và ung thư tuyến tiền liệt của quốc gia này xếp vào hàng thấp nhất trên thế giới. Đây có thể xem là một trong các minh chứng về tác dụng và hiệu quả ngăn ngừa và điều trị ung thư của Nghệ vàng.
Tiềm năng điều trị ung thư của hoạt chất Curcumin
Năm 1815, một nhà khoa học đã phân lập được một hoạt chất có trong Nghệ vàng và đặt tên nó là Curcumin (ký hiệu là C.I. 75300), hoạt chất này tạo ra màu vàng đặc trưng của Nghệ và nó chiếm đến 2-5% các hoạt chất trong Nghệ vàng. Tiếp đến, năm 1910 người ta xác định Curcumin là một loại Polyphenol kỵ nước, có cấu trúc Diferuloymethane. Curcumin khó hòa tan trong nước ở môi trường có pH acid và trung tính, tuy nhiên hoạt chất này lại dễ hòa tan trong môi trường acetone, methanol, ethanol và dễ bị phân hủy trong đường tiêu hóa.
Năm 2009, đã có nghiên cứu do trường Đại học Texas – Mỹ chỉ ra rằng Curcumin có khả năng giúp điều chỉnh sự tăng trưởng và lan rộng của các tế bào ung thư ở cấp độ phân tử mà không làm tổn thương các tế bào lành tính bên cạnh. Từ đây, mở ra nhiều tiềm năng nghiên cứu về hoạt chất Curcumin trong điều trị bệnh lý ung thư. Cụ thể, nghiên cứu này cho thấy Curcumin hoạt động thông qua việc điều chỉnh các con đường truyền tín hiệu của tế bào bao gồm cả con đường sinh sản tế bào mới, con đường chống lại quá trình chết của tế bào, con đường kích hoạt capspase, con đường ức chế khối u, con đường thụ thể chết tế bào và con đường protein kinase.
Từ các nghiên cứu trong môi trường cấy và trên động vật cho thấy hoạt chất Curcumin có tác dụng ức chế cyclooxygenase, lipooxygenase, NO và các cytokine tác nhân tiền viêm như IL1, IL6, IL8 vì có hoạt tính kháng viêm, chống oxy hóa, sát khuẩn và kháng ung thư như các công bố đã công nhận.
Sự ảnh hưởng của hoạt chất Curcumin đến từng loại tế bào ung thư
Tế bào ung thư dạ dày
Năm 2017, một nghiên cứu xác định tác dụng của Curcumin trong việc ức chế tế bào ung thư dạ dày theo con đường ức chế bài tiết acid dạ dày thông qua chất trung gian Gastrin – yếu tố kích thích tăng tiết dịch vị acid, được thực hiện trên chuột. Kết quả thu được chứng minh hoạt chất Curcumin có khả năng ức chế đáng kể sự tăng sinh của các tế bào ác tính ở dạ dày, từ đó kích hoạt con đường chết tế bào. Hoạt chất này cũng có tác dụng cải thiện đáng kể trên nhóm bệnh nhân viêm teo dạ dày mạn tính hoặc dị sản biểu mô dạ dày ruột giai đoạn 2-4.
Tế bào ung thư tụy
Thử nghiệm lâm sàng cũng được áp dụng cho nhóm bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn tiến triển, đánh giá nồng độ hoạt chất trung gian gây viêm như IL-6, IL-8, IL-10, IL-1, NF-κB và cyclooxygenase-2 (COX-2) (sự biểu hiện trong tế bào đơn nhân máu ngoại vi) cho thấy 8% bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng, 4% ổn định nồng độ các chất chỉ điểm viêm liên tục trong 18 tháng, 4% cho thấy có sự giảm khối u so với ban đầu.
Tế bào ung thư vú
Có 3 nhóm tế bào ung thư vú được thử nghiệm là dòng tế bào ung thư của nhóm bệnh nhân phụ thuộc hormon, nhóm bệnh nhân không phụ thuộc hormon và trên tế bào đa kháng thuốc. Kết luận hoạt chất Curcumin giúp điều chỉnh gen ung thư vú thông qua việc tác động lên chu kỳ và sự tăng sinh tế bào, lão hóa tế bào, chết tế bào theo chu trình, sự xâm lấn và tăng sinh mạch máu. Thông qua sự đáp ứng tại các con đường tín hiệu qua các thụ thể như NFkB, PI3K / Akt / mTOR, MAPK và JAK / STAT.
Tế bào ung thư gan
Hoạt chất Curcumin có khả năng làm gián đoạn chu kỳ tế bào, gây độc tế bào, ngăn chặn sự tăng sinh và gây chết tế bào theo chương trình.
Tế bào ung thư biểu mô đại trực tràng
Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 trên nhóm nhỏ bệnh nhân ung thư đại trực tràng tiến triển, được thực hiện bởi Shama và cộng sự vào năm 2001 cho thấy hoạt chất này có khả năng làm giảm nồng độ các chất chỉ điểm ung thư.
Ngoài ra, nghiên cứu khoa học đăng tải trên tạp chí y học Pubmed của Thư viện y khoa quốc gia và Viện Sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ tháng 5/1998 cho thấy, trong hạt tiêu đen có một hoạt chất gọi là Piperine, có tác dụng tăng hấp thu và giảm đào thải của Curcumin trong máu lên rõ rệt. Việc kết hợp với Piperine theo tỷ lệ 1% làm tăng được sinh khả dụng của Curcumin trên cơ thể người lên tới 20 lần so với không dùng Piperine.
Liều dùng an toàn của hoạt chất Cucurmin
Từ khi những bằng chứng chứng minh tác dụng của hoạt chất Cucurmin được công bố đã đẩy mạnh việc tìm kiếm và sử dụng Nghệ vàng hoặc hoạt chất Cucurmin trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư. Nhưng việc sử dụng như thế nào cũng là việc chúng ta cần biết để tránh những hậu quả đáng tiếc.
Theo FDA (Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thuộc Liên Hợp Quốc – FAO/WHO) khuyến cáo thì liều dùng an toàn của Curcumin thường từ 0,1-3 mg/kg. Nếu sử dụng quá hàm lượng cho phép có thể tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến các biến chứng ở một số đối tượng như:
– Phụ nữ mang thai nếu dùng nghệ trong thai kỳ có thể làm tăng co bóp tử cung gây nguy cơ sảy thai.
– Nghệ vàng có thể làm tăng nguy cơ các bệnh lý về túi mật, sỏi mật.
– Nghệ vàng có thể làm chậm quá trình đông máu, làm gia tăng nguy cơ chảy máu ở nhóm bệnh nhân có rối loạn đông cầm máu.
– Nghệ vàng có khả năng làm hạ đường huyết nên dễ gây hạ đường huyết ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường.
– Nghệ vàng có thể làm tăng nặng triệu chứng của bệnh lý dạ dày, thực quản ở một số đối tượng.
Ngày nay, khi số bệnh nhân ung thư ngày càng gia tăng thì công cuộc tìm kiếm các phương thuốc điều trị và chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư ngày càng được đào sâu và mở rộng. Các hoạt chất tự nhiên mới liên tục được tìm ra và hiệu quả điều trị ngày càng được cải thiện. Trên con đường chống lại căn bệnh quái ác này, nhà thuốc đông y gia truyền Thọ Xuân Đường đã tiếp nhận điều trị và chăm sóc giảm nhẹ cho nhiều bệnh nhân ung thư bằng việc áp dụng các phương pháp cổ truyền kết hợp sự tiến bộ của y học hiện đại, đưa các hợp chất tự nhiên vào trong điều trị để tăng cường hiệu quả và giảm tác dụng phụ đối với nhóm bệnh nhân này.
BS. Nguyễn Yến